Một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo

Thứ sáu, 08/07/2016 08:49
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp, là một trong những công cụ quan trọng để công dân đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, là kênh tiếp nhận nguồn thông tin của các cơ quan nhà nước trong việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Để công dân thực hiện tốt quyền tố cáo của mình, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực như: ban hành văn bản quy định về tố cáo, giải quyết tố cáo và việc bảo vệ người tố cáo như Luật Tố cáo, Bộ Luật hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.... Hiện nay, Việt Nam là thành viên chính thức của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Công ước này yêu cầu mỗi quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp thích hợp căn cứ vào pháp luật quốc gia và trong khả năng có thể, bảo vệ trước nguy cơ trả thù và đe dọa có thể xảy ra đến với nhân chứng và chuyên gia, những người đã đưa ra bằng chứng hoặc chứng thực liên quan đến tội phạm theo quy định của Công ước.

Tuy nhiên, quy định của pháp luật còn có những hạn chế. Vì vậy, việc thực hiện quyền tố cáo của công dân trong thời gian qua tồn tại nhiều bất cập. Nhiều trường hợp, người tố cáo bị trả thù, trù dập nhưng không được các cơ quan nhà nước bảo vệ hoặc các biện pháp bảo vệ chưa thực sự mang lại hiệu quả như yêu cầu. Hệ quả là, người tố cáo bị trả thù, trù dập, bị xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, thậm chí mất việc làm nhưng không được bảo vệ hiệu quả. Những vấn đề trên làm mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước, làm hạn chế khả năng phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước. Trong phạm vi một bài viết nghiên cứu, xin đưa ra một số vấn đề trong việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo.

1. Thực trạng việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo

Thứ nhất, nhu cầu của người tố cáo mong muốn được Nhà nước bảo vệ là khá lớn với 699 trường hợp yêu cầu bảo vệ đã được các cơ quan nhà nước tiếp nhận trong thời gian qua. Nội dung mà người tố cáo mong muốn được bảo vệ cũng rất đa dạng, bao gồm cả bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, uy tín danh dự, nhân phẩm… nhưng chủ yếu là mong muốn được bảo vệ bí mật thông tin với 524/699 trường hợp (chiếm 75%). Tiếp đó những trường hợp yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cũng khá cao, chiếm gần 9%. Điều đó thể hiện người tố cáo thường không muốn lộ thông tin về mình và khi đã bị lộ thì điều mà họ lo ngại nhất chính là tính mạng, sức khoẻ của bản thân, gia đình [1].

Thứ hai, các cơ quan chức năng cũng đã chú trọng thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo ngay cả khi người tố cáo không yêu cầu. Việc chủ động bảo vệ (chủ yếu là giữ bí mật thông tin) giúp cho người tố cáo sẽ không bị lộ danh tính và do đó giảm thiểu khả năng họ bị đe doạ hoặc trả thù.

Thứ ba, thực tế đã xảy ra một số trường hợp người tố cáo bị đe doạ, trả thù và cũng đã có trường hợp bị phát hiện, xử lý do trả thù người tố cáo, mặc dù kết quả còn ít.

Thứ tư, một số biện pháp bảo vệ được pháp luật quy định như: hạn chế phạm vi đi lại, quan hệ giao tiếp, thăm gặp, làm việc, học tập, di chuyển và giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập, thay đổi tung tích, lai lịch, đặc điểm nhân thân, nhận dạng để bảo vệ tính mạng, sức khỏe là những biện pháp rất cụ thể và khá “hiện đại”, nhưng trên thực tế chưa được áp dụng. Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như do người tố cáo chưa có yêu cầu hoặc do các vụ việc tố cáo chưa thuộc trường hợp phải áp dụng các biện pháp đó. Tuy nhiên cũng có thể có nguyên nhân là biện pháp này còn mới, chưa có hướng dẫn cụ thể nên khó khăn trong triển khai thực hiện nên không có tổng hợp về kết quả cụ thể.

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Nhìn chung, từ thực tế kết quả thực hiện bảo vệ người tố cáo cho thấy, các quy định hiện hành về bảo vệ người tố cáo về cơ bản đã thuận lợi cho việc thực hiện; các biện pháp bảo vệ tương đối toàn diện; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định khá cụ thể… Tuy nhiên, thực tế thực hiện cũng nảy sinh một số vấn đề vướng mắc như sau:

Một là, về bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo

Quá trình giải quyết tố cáo, nội dung tố cáo được tiếp nhận, xử lý bởi  nhiều cơ quan, đơn vị với sự tham gia của nhiều cán bộ, công chức qua nhiều bước trình tự, thủ tục vì vậy việc thực hiện bảo mật nội dung tố cáo và thông tin về người tố cáo có những khó khăn. Trong thực tế, người tố cáo thường gửi đơn đến nhiều cơ quan khác nhau, càng làm cho việc bảo mật thông tin thêm khó khăn. Việc thực hiện quy định kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo gặp nhiều khó khăn khi triển khai trong thực tế. Trong khi đó một số cơ quan truyền thông đưa tin thiếu kiểm chứng cũng làm việc xác minh, bảo mật thông tin thêm khó khăn, phức tạp.

Hai là, về căn cứ để yêu cầu bảo vệ đối với người tố cáo

Nghị định 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật Tố cáo quy định khi có “căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc… của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì họ có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên, chưa có một cách hiểu chung về khái niệm “có căn cứ”  khi thiếu liệt kê những biểu hiện hình thức và định lượng về mức độ đe dọa. Bên cạnh đó, công tác giải quyết tố cáo còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì thiếu các trang thiết bị để phục vụ cho nghiệp vụ chuyên môn để thẩm tra, xác minh những căn cứ làm cơ sở cho việc kết luận nội dung tố cáo.

Ba là, về quy định nơi bảo vệ người tố cáo

Tại điểm 3 Điều 14 Nghị định 76/2012/NĐ-CP, đã quy định: “Khi xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang diễn ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ như bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ để bảo vệ an toàn cho người được bảo vệ tại nơi cần thiết; tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn”… Thế nhưng, địa điểm bảo vệ người tố cáo được quy định là “nơi cần thiết” và “nơi an toàn” vẫn chỉ là khái niệm chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể.

Bốn là, về quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo

Theo quy định, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo, cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, Ủy ban nhân dân nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Tuy nhiên, trong thực tế, rất hiếm khi người giải quyết tố cáo đồng thời là người trực tiếp xác minh nội dung tố cáo mà thông thường là giao cho cơ quan thanh tra thành lập đoàn xác minh, nên khi người tố cáo có căn cứ cho rằng mình có thể bị gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe… thì họ thường sẽ thông báo và yêu cầu đến người xác minh. Sau đó, người xác minh báo cáo lại người giải quyết tố cáo để chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo, điều này dẫn đến một số khó khăn, đặc biệt là trong các tình huống phải khẩn trương bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ bảo vệ, tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn.

Ngoài ra, việc bảo vệ người tố cáo cũng phải gắn với việc bảo vệ những người cung cấp thông tin, hỗ trợ người tố cáo, người nắm giữ các thông tin, tài liệu quan trọng làm chứng cứ cho nội dung tố cáo.

Năm là, về cụ thể hóa quy trình phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ

Trong quy định của Luật Tố cáo và văn bản có liên quan chưa cụ thể hóa quy trình thời gian phối hợp, xác minh yêu cầu được bảo vệ của người tố cáo. Điều đó có thể dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, làm chẫm trễ thời gian xác minh, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người tố cáo và người thân của họ. Do đó, việc thiếu hướng dẫn cụ thể quy trình thủ tục về tiếp nhận, xử lý giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến việc bảo vệ người tố cáo cũng là vấn đề tạo khó khăn trong thực tiễn. Việc bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo (tại khoản 2 Điều 16 và tại mục a, khoản 2, Điều 18 Nghị định 76) cũng chưa có quy định cụ thể về thời gian thực hiện bảo vệ của người có thẩm quyền.

Sáu là, về công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về bảo vệ người tố cáo:

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tố cáo và bảo vệ người tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, còn tình trạng công dân vẫn chưa biết được những quyền lợi và cơ chế bảo vệ khi đứng ra tố cáo. Trong khi đó, việc giải quyết tố cáo trong một số lĩnh vực còn chưa tốt, ảnh hưởng đến quyền của người dân, gây mất lòng tin của nhân dân với cơ quan nhà nước. Nhiều đối tượng bị tố cáo sử dụng các thủ đoạn mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực khiến cho công dân hoang mang, lo sợ. Công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức đặc biệt là những người trực tiếp tham gia vào quá trình bảo vệ người tố cáo chưa được thường xuyên; sự tham gia của các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí, truyền thông, luật sư chưa thực sự hiệu quả.

Có thể thấy các quy định về bảo vệ người tố cáo hành vi phạm tội đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Về cơ bản, các quy định về điều kiện để bảo vệ người tố cáo, biện pháp để phục hồi danh dự cho những người bị ảnh hưởng bởi những lời tố cáo không đúng sự thực, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền đã phù hợp. Tuy nhiên, về nội dung, các quy định này còn chung chung, mang tính khái quát. Trong khi đó, các biện pháp bảo vệ cụ thể, cơ chế thực hiện các biện pháp bảo vệ cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo hầu như chưa được quy định một cách cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc quy định còn sơ sài, một số nội dung quy định chưa rõ ràng, các biện pháp bảo vệ cụ thể thường được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan là giữ bí mật họ tên, địa chỉ của người tố cáo.
Các cơ quan, tổ chức có liên quan chưa xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ về tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố cáo; chưa quán triệt sâu sắc ý nghĩa và nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tham gia vào quá trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố cáo về việc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố cáo nói chung còn chưa nhiều để người dân có thể hiểu được và yên tâm sẵn sàng tham gia tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, chưa động viên, khuyến khích được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như tội phạm tham nhũng nói riêng.
3. Một số giải pháp

1) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật về bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo

Các quy định của pháp luật hiện nay về bảo vệ người tố cáo đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định trước đó và đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền tố cáo của mình góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tiến trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, từ thực tiến cho thấy còn một số nội dung cần được làm rõ hơn, cần phải nghiên cứu, bổ sung những quy định cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo vệ người tố cáo và hỗ trợ người tố cáo về kinh tế khi thay đổi nơi cư trú, thay đổi công việc, hạn chế đi lại, tiếp xúc; cần đảm bảo kinh phí thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo.

Cần thiết phải quy định cụ thể cơ chế bảo vệ người tố cáo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Cần xây dựng một chế định pháp lý hoàn chỉnh bảo vệ người tố cáo đảm bảo cơ sở pháp lý “cần và đủ” để thực hiện công tác này trên thực tế. Bảo vệ người tố cáo cần được thực hiện thông qua một cơ chế hoạt động cụ thể của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giúp cho người tố cáo không bị mua chuộc, khống chế, bị đe dọa, trả thù để họ có thái độ hợp tác tích cực, khai báo khách quan, trung thực và chính xác với cơ quan, người có thẩm quyền. Các hoạt động đó cần phải dựa trên sơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc và khả thi. Cần quy định rõ thủ tục tiến hành, quyền và trách nhiệm cụ thể, rõ ràng của các chủ thể tham gia trong thực hiện bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người tố cáo và các quyền, lợi ích vật chất, tinh thần khác cho người tố cáo. Cần khẳng định dứt khoát phải bảo vệ người tố cáo cho dù họ có yêu cầu hay không yêu cầu để đề phòng sự chủ quan, sơ suất hoặc đổ lỗi cho nhau của cả người tố cáo và cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong giải quyết tố cáo. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng như trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ người tố cáo. Lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác bảo vệ người tố cáo phải được quy định, làm cơ sở cho việc tổ chức công tác bảo vệ và quyết toán ngân sách.

Các biện pháp cụ thể để bảo vệ người tố cáo bao gồm: biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế, biện pháp kỹ thuật. Cần quy định cụ thể một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để áp dụng trong trường hợp cần thiết.

Cần quy định rõ biện pháp chế tài đối với hành vi trả thù, trù dập người tố cáo, hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật, xử lý hình sự đối với người có hành vi này.

2) Đổi mới và tăng cường các biện pháp nhằm bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo

Các cơ quan, tổ chức phải xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ về tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố cáo, trong đó, nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân trong việc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo. Bên cạnh việc bảo vệ người tố cáo, cần có quy định bảo vệ những người cung cấp thông tin, hỗ trợ người tố cáo, người nắm giữ các thông tin, tài liệu quan trọng làm chứng cứ cho nội dung tố cáo. Nghiên cứu cơ chế cho phép người tố cáo trong giai đoạn gửi đơn tố cáo có thể chưa nêu rõ tên, địa chỉ của mình mà chỉ cần cung cấp thông tin đủ để khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết muốn liên hệ có thể gặp được cũng như cung cấp số điện thoại hoặc hộp thư điện tử.

3) Hướng dẫn cụ thể các căn cứ yêu cầu bảo vệ người tố cáo và dự kiến tình huống thực tế

Để thống nhất nhận thức về sự cần thiết khi phải triển khai các biện pháp bảo vệ người tố cáo, cần có hướng dẫn, làm rõ nội hàm của khái niệm “có căn cứ” “nơi cần thiết”, “nơi an toàn”  và có ví dụ cụ thể thông qua các tình huống cụ thể để thuận lợi cho việc áp dụng thực hiện ở cơ sở. Tuy nhiên, việc hiểu như thế nào là “có căn cứ” theo quy định trên đang còn là một vấn đề vì quy định này không liệt kê hoặc định lượng ở mức độ nào, những biểu hiện nào, những hành vi nào thì được coi là “có căn cứ”. Từ thực tiễn trên có thể thấy khả năng sẽ có hai tình huống: Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể xâm hại đến đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu, người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ. Trường hợp này không những gây tốn kém không cần thiết mà còn có thể dẫn đến những tình huống không hay về mặt tâm lý, dư luận xã hội. Hai là, tình huống thực sự rất cần bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan điểm chưa đủ căn cứ nên người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định.  Do đó, cần đưa ra một số tiêu chí cho việc được coi là “có căn cứ”, “nơi cần thiết”, “nơi an toàn”, sau đó hướng dẫn thống nhất áp dụng cho việc bảo vệ người tố cáo trên phạm vi toàn quốc.

4) Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo

Theo quy định của Luật Tố cáo và Nghị số 76/2012/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, Ủy ban nhân dân nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Có thể nói về mặt nguyên tắc, việc quy định như vậy đã cơ bản khắc phục được tình trạng người tố cáo “phải tự đi tìm người bảo vệ mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tế, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo. Để việc phối hợp bảo vệ người tố cáo được tốt và hiệu quả hơn nữa cần phải có những quy định, hướng dẫn cụ thể như trong trường hợp nào thì người giải quyết tố cáo sẽ chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an cấp nào, thời hạn bao lâu thì cơ quan, cá nhân được yêu cầu tiến hành thực hiện các biện pháp bảo vệ và chế tài hoặc hình thức xử lý các trường hợp không chấp hành hoặc chấp hành không triệt để, không kịp thời dẫn đến hậu quả không bảo vệ được người tố cáo theo yêu cầu. Cụ thể:

- Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan, hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức, quy trình phối hợp; quy định rõ cơ quan có trách nhiệm nào phải xây dựng phương án bảo vệ người tố cáo; cần quy định cụ thể việc yêu cầu gia hạn thời gian bảo vệ; hướng dẫn các biện pháp để hỗ trợ người tố cáo khôi phục lại điều kiện sống, làm việc, học tập bình thường sau khi kết thúc việc giải quyết tố cáo.

- Quy định phương thức đảm bảo kinh phí cụ thể kèm theo biện pháp bảo vệ người tố cáo; có quy định về trang bị phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác bảo vệ; chế độ khen thưởng đối với người bảo vệ người tố cáo; quy định việc bồi thường, hỗ trợ trong trường hợp nếu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không bảo vệ được người đi tố cáo dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tố cáo và người thân của họ.

Trong trường hợp nếu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không bảo vệ được người tố cáo mà bản thân họ bị thiệt hại thì Nhà nước nên có chính sách đối với họ nhằm bồi thường thiệt hại.

- Có cơ chế xử lý về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân vi phạm các quy định về bảo vệ người tố cáo. Mặt khác cần có chế tài xử lý đối với những người lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo sai sự thật; đưa ra yêu cầu được bảo vệ đối với những tranh chấp dân sự, mâu thuẫn cá nhân; gửi đơn tố cáo không đúng sự thật đến cơ quan nhà nước và các cơ quan báo chí liên tiếp trong thời gian dài làm ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của tập thể, cá nhân.

Ngoài ra cũng cần tăng cường vai trò của tổ chức, đoàn thể, đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân; phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan báo chí, các tổ chức xã hội dân sự trong công tác bảo vệ người tố cáo.


Nguyễn Bạch Tuyết
Viện Khoa học Thanh tra

[1] Báo cáo số 180/BC-TH ngày 28/9/2015 của Cục Chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ

toanld

Nguồn: Viện Khoa học Thanh tra

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)