Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9 diễn ra vào chiều nay (13/2), Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ GTVT Trần Hồng Minh đã trình bày tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
![](/Images/editor/images/Toan/2025/02/QH13022.png)
Bộ trưởng Bộ GTVT Trần Hồng Minh trình bày tờ trình về chủ trương đầu tư
dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, dự án có chiều dài tuyến chính khoảng 390,9km và 3 tuyến nhánh khoảng 27,9km. Điểm đầu tại vị trí kết nối ray qua biên giới giữa ga Lào Cai mới và ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc), thuộc địa phận TP Lào Cai; điểm cuối tại khu bến Lạch Huyện, thuộc địa phận TP Hải Phòng.
Dự án đi qua địa phận 9 tỉnh, thành phố gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 203.231 tỷ đồng (khoảng 8,369 tỷ USD).
Hướng tuyến được nghiên cứu, lựa chọn bảo đảm ngắn nhất, thẳng nhất có thể và đáp ứng nguyên tắc: phù hợp với các quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật của tuyến đường; phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu.
Hạn chế đi qua khu vực nhạy cảm về môi trường tự nhiên, xã hội, đất quốc phòng; hạn chế khối lượng giải phóng mặt bằng (GPMB); bảo đảm kết nối thuận lợi với các trung tâm đô thị, khu chức năng quan trọng, kết nối thuận lợi với các tuyến đường sắt khu vực đầu mối Hà Nội, đường sắt kế nối Trung Quốc.
Phương án tuyến lựa chọn đã được 9/9 địa phương cơ bản thống nhất và sẽ tiếp tục rà soát, điều chỉnh bảo đảm hiệu quả kinh tế - kỹ thuật trong bước lập báo cáo nghiên cứu khả thi.
Về nguồn vốn, Chính phủ kiến nghị nguồn vốn cho dự án gồm ngân sách Nhà nước (trung ương, địa phương), nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài (vay Chính phủ Trung Quốc) và các nguồn vốn hợp pháp khác.
![](/Images/editor/images/Toan/2025/02/QH13023.png)
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, hướng tuyến của dự án được nghiên cứu,
lựa chọn bảo đảm ngắn nhất, thẳng nhất
Về quy mô đầu tư, xây dựng mới tuyến đường sắt điện khí hóa khổ 1.435mm, vận chuyển chung hành khách và hàng hóa.
Trong đó, tuyến chính đoạn từ ga Lào Cai mới đến ga Nam Hải Phòng tốc độ thiết kế 160km/h, đoạn qua khu vực đầu mối Hà Nội tốc độ thiết kế 120km/h, các đoạn nối, tuyến nhánh tốc độ thiết kế 80km/h.
Về công nghệ, dự án sử dụng công nghệ đoàn tàu động lực tập trung cho tàu khách và tàu hàng; hệ thống thông tin, tín hiệu tương đương với hệ thống đang sử dụng tại một số tuyến đường sắt vận chuyển chung hành khách và hàng hóa trong khu vực.
![](/Images/editor/images/Toan/2025/02/QH13021.png)
Toàn cảnh nghị trường
Dự kiến bố trí 18 ga (bao gồm 3 ga lập tàu, 15 ga hỗn hợp). Trong quá trình khai thác, khi nhu cầu vận tải tăng lên sẽ nghiên cứu, nâng cấp một số trạm tác nghiệp kỹ thuật thành ga hỗn hợp và đầu tư bổ sung các ga khi có nhu cầu.
Theo tiến độ dự kiến, dự án được lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành năm 2030.
Để thực hiện dự án, Chính phủ đề xuất áp dụng 19 cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, trong đó có 15/19 cơ chế, chính sách đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và bổ sung 4 cơ chế, chính sách mới.
Việc áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là rất cần thiết
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, dự án đáp ứng tiêu chí dự án quan trọng quốc gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư. Hồ sơ Dự án đáp ứng yêu cầu của Luật Đầu tư công.
![](/Images/editor/images/Toan/2025/02/QH13024.png)
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra
Về sự cần thiết của Dự án, Ủy ban Kinh tế thống nhất sự cần thiết đầu tư Dự án với những cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và những lý do thực tiễn đã được nêu tại Tờ trình.
Về phạm vi, quy mô đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật, tốc độ thiết kế, Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với đề xuất của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn việc chuyển giao công nghệ, vận hành, khai thác Dự án sau khi hoàn thành để tránh việc phụ thuộc công nghệ và việc xây dựng Dự án đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng, quốc phòng, an ninh.
Về hướng tuyến, Ủy ban Kinh tế cho rằng, hướng tuyến của Dự án cơ bản bám dọc theo tuyến đường bộ cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, để giảm diện tích đất thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và hạn chế để đất xen kẹp giữa tuyến đường sắt và đường bộ cao tốc, đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát kỹ lưỡng, lựa chọn phương án hướng tuyến tối ưu bảo đảm việc kết nối của Dự án với mạng lưới đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, hệ thống giao thông khác và giảm thiểu tác động tiêu cực do thu hồi đất phục vụ Dự án đối với doanh nghiệp và người dân.
Về công trình ga, trạm tác nghiệp kỹ thuật, có ý kiến theo cho rằng, Luật Đường sắt quy định ga đường sắt là nơi để phương tiện giao thông đường sắt dừng, tránh, vượt, đón, trả khách, xếp, dỡ hàng hoá, thực hiện tác nghiệp kỹ thuật và các dịch vụ khác. Do vậy, cần làm rõ khác biệt giữa khái niệm ga và trạm tác nghiệp cũng như sự cần thiết và nguyên tắc bố trí các trạm tác nghiệp này. Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, rà soát, mở rộng quy mô các ga (ga Lào Cai, ga Bảo Thắng), bố trí ga phù hợp với quy hoạch của địa phương (ga Yên Viên) để đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương.
Về phương án đầu tư, Chính phủ đề xuất phân kỳ đầu tư Dự án theo quy mô đường đơn và thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy mô quy hoạch đường đôi và sẽ đầu tư hoàn thiện trong giai đoạn sau. Ủy ban Kinh tế cho rằng, trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, nhu cầu vận tải của tuyến này còn chưa cao và hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đã có tuyến đường bộ cao tốc và đường sắt hiện hữu (khổ 1.000 mm) cùng khai thác thì việc đề xuất đầu tư phân kỳ Dự án là phù hợp và việc đầu tư hoàn thiện sẽ được nghiên cứu khi có nhu cầu.
Uỷ ban Kinh tế nhận thấy, Dự án có vai trò quan trọng, mang tính chiến lược dài hạn và có quy mô rất lớn, yêu cầu về công nghệ kỹ thuật phức tạp. Do đó, để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả cho Dự án thì việc Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là rất cần thiết.
Theo đó, trên cơ sở rà soát các chính sách đặc thù, đặc biệt của Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và đặc điểm của Dự án, Chính phủ đề xuất cho phép áp dụng 15 chính sách tại Nghị quyết số 172/2024/QH15, do đó Uỷ ban Kinh tế cơ bản nhất trí với các cơ chế, chính sách này.
T.H