Kế hoạch phát triển KHCN giai đoạn 2006-2020 của Trung Quốc

Thứ tư, 08/07/2009 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị xây dựng Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) giai đoạn 2011-2020. Kinh nghiệm về xây dựng Kế hoạch phát triển KH&CN của Trung Quốc, một nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu và học hỏi của các nhà quản lý.

Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị xây dựng Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) giai đoạn 2011-2020. Kinh nghiệm về xây dựng Kế hoạch phát triển KH&CN của Trung Quốc, một nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu và học hỏi của các nhà quản lý. Điểm đặc biệt đáng lưu ý trong Kế hoạch này của Trung Quốc là việc áp dụng tư duy về đổi mới và cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia trong việc xác định mục tiêu, đề ra các giải pháp chiến lược trong chuyển đổi “hệ thống KH&CN” thành “hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc”, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và xây dựng Trung Quốc thành một “quốc gia định hướng đổi mới” vào năm 2020.
Sau nhiều năm chuẩn bị và xây dựng với sự tham gia của hơn 2.000 chuyên gia, tháng 1.2006, Trung Quốc đã hoàn tất và thông qua Kế hoạch trung hạn và dài hạn phát triển KH&CN cho giai đoạn 2006-2020. Đây là lần thứ ba kể từ năm 1949, Trung Quốc xây dựng và ban hành kế hoạch phát triển KH&CN với quy mô và tầm nhìn dài hạn. Khác biệt cơ bản của Kế hoạch này so với các kế hoạch trước là sự khẳng định mục tiêu xây dựng một hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc và lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Tuy không gọi là chiến lược phát triển KH&CN nhưng về thực chất, Bản kế hoạch đã đưa ra những định hướng mục tiêu mang tính chiến lược cho KH&CN Trung Quốc trong giai đoạn 2006-2020. Điều đáng lưu ý nhất là thông qua Bản kế hoạch này, Trung Quốc đã thể hiện một tầm nhìn dài hạn, tư duy toàn cầu và cách tiếp cận hệ thống đổi mớitrong định hướng chiến lược phát triển KH&CN.
Thứ nhất, Bản kế hoạch đặt mục tiêu tổng quát đến năm 2020 Trung Quốc phải:Cải thiện đáng kể năng lực đổi mới về KH&CN của đất nước; tạo khả năng thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội phát triển, giữ gìn an ninh quốc gia thông qua việc hoàn thiện năng lực đổi mới KH&CN hướng tới xây dựng một xã hội khá giả toàn diện; đẩy mạnh và tăng cường năng lực nghiên cứu cơ bản và các công nghệ tiên tiến; tạo ra những kết quả KH&CN có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu; có tên trong nhóm các quốc gia định hướng đổi mới để trở thành cường quốc thế giới về KH&CN vào giữa thế kỷ XXI.
Qua đó có thể thấy, Trung Quốc đã khẳng định và thực hiện định hướng hoạt động KH&CN theo cách tiếp cận xây dựng năng lực đổi mới KH&CN, lấy năng lực đổi mới KH&CN làm nòng cốt xây dựng Trung Quốc trở thành một quốc gia định hướng đổi mới (Innovation - Oriented Country) thay vì mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp hóa như cách diễn đạt vào những năm 70 của thế kỷ trước. Diễn đạt này thể hiện sự bắt kịp và tương hợp của Trung Quốc với bối cảnh toàn cầu hóa của thời đại ngày nay khi mà năng lực đổi mới của quốc gia (bao gồm nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế, nhất là dịch vụ và KH&CN) chứ không phải chỉ năng lực công nghiệp hóa mới là tiền đề cho sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, mục tiêu tổng quát nêu trên được cụ thể hoá thông qua các mục tiêu cụ thể trong công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, dược phẩm và y tế, quốc phòng, đào tạo nhân lực cho nghiên cứu - phát triển (R&D). Kế hoạch này đã đưa ra một số mục tiêu rất đáng lưu ý, ví dụ đến năm 2010, tỷ lệ chi cho R&D/GDP đạt hơn 2% và năm 2020 đạt 2,5%. Đóng góp của hoạt động KH&CN vào tăng trưởng kinh tế đạt 60%, mức độ phụ thuộc vào công nghệ nhập từ nước ngoài giảm xuống dưới 30% (năm 2004 chi phí nhập công nghệ của Trung Quốc chiếm tới 54% tổng chi cho KH&CN), Trung Quốc sẽ xếp thứ 5 thế giới về số lượng bằng sáng chế được cấp và về chỉ số trích dẫn các bài báo khoa học.
Với những mục tiêu cụ thể nêu trên của Kế hoạch, Trung Quốc thể hiện ý đồ rất rõ ràng muốn vươn lên trở thành một cường quốc về KH&CN trên thế giới cả về đầu tư và thành tựu KH&CN. Đồng thờI, thể hiện cách tiếp cận đưa KH&CN lan tỏa nhanh chóng vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà không chỉ dừng lại ở các mục tiêu thuần túy về KH&CN.
Thứ ba, Kế hoạch cũng đã xác định 68 vấn đề ưu tiên trong 11 lĩnh vực nghiên cứu then chốt như: Năng lượng, tài nguyên khoáng sản và nước, môi trường, nông nghiệp, công nghiệp chế tạo, vận tải, công nghệ thông tin, y tế, đô thị hóa, quốc phòng và an ninh...; đề ra 16 chương trình đặc biệt về thiết bị điện tử, mạch tích hợp cỡ lớn, công nghệ truyền dẫn không dây băng thông rộng, các giống sinh vật biến đổi gen, các loại dược phẩm chức năng, công nghệ chế tạo máy bay cỡ lớn, công nghệ đưa người vào không gian...; xác định các lĩnh vực công nghệ then chốt bao gồm: Công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ chế tạo tiên tiến, công nghệ sản xuất các dạng năng lượng mới, các công nghệ biển, công nghệ laser và công nghệ vũ trụ; các chủ đề nghiên cứu cơ bản được ưu tiên bao gồm: Các khoa học về nhận thức, cấu trúc sâu của vật chất, một số chuyên ngành toán học then chốt, nghiên cứu về trái đất, các nghiên cứu hóa học về quá trình tạo và biến đổi của vật chất…
Để thực thi các định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Bản kế hoạch đưa ra giải pháp cải cách hệ thống KH&CN, xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc liên quan đến chính sách tài khoá, chi tiêu của khu vực công, sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, phối kết hợp giữa KH&CN quân sự và dân sự, hợp tác quốc tế và mở rộng các liên kết đổi mới trong nước, nâng cao dân trí về KH&CN. Kế hoạch cũng nhấn mạnh vai trò của đầu tư xây dựng hạ tầng KH&CN và đào tạo nhân lực cho KH&CN.
Ở đây, điều đáng lưu ý là Kế hoạch phát triển KH&CN của Trung Quốc đã đưa ra khái niệm “hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc”. Với khái niệm này, Trung Quốc đã đặt hệ thống KH&CN vào một khuôn khổ rộng lớn hơn để định hướng phát triển KH&CN trong sự gắn kết với các hệ thống tài chính, các định chế về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và các yếu tố khác thuộc hạ tầng KH&CN. Đây là một gợi suy cho Việt Nam trong quá trình xây dựng chiến lược và các kế hoạch phát triển KH&CN trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh tài chính cho hoạt động KH&CN ở Việt Nam hiện đang là một “nút thắt cổ chai” trong đổi mới cơ chế quản lý KH&CN.
Thứ tư, vềcải cách hệ thống KH&CN, Bản kế hoạch đã đưa ra một số nhiệm vụ chủ yếu là: Hỗ trợ các doanh nghiệp trở thành chủ thể chính của hoạt động đổi mới công nghệ; xây dựng và hình thành hệ thống các viện nghiên cứu hiện đại; cải tổ hệ thống quản lý KH&CN; xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc.
Ngoài việc chuyển hướng sang xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia mang màu sắc Trung Quốc, cải cách hệ thống KH&CN trong những năm tới đã xác định hướng vào hỗ trợ các doanh nghiệp (thay vì các tổ chức KH&CN) để doanh nghiệp trở thành chủ thể chính của hoạt động đổi mới công nghệ. Việc xác định rõ và đúng chủ thể của hoạt động đổi mới công nghệ là tiền đề quan trọng để xây dựng năng lực đổi mới và hình thành hệ thống đổi mới quốc gia.
Thứ năm, Bản kế hoạch xác định mục tiêu của hệ thống KH&CN Trung Quốc là biến đổi và trở thành hệ thống đổi mới quốc gia, theo đó, hệ thống này được xác định là hệ thống xã hội, trong đó chính phủ đóng vai trò chủ đạo, doanh nghiệp là trung tâm, thị trường đóng vai trò cơ bản, nền tảng trong huy động nguồn lực, các tác nhân, chủ thể đổi mới khác cộng tác và liên kết chặt chẽ với nhau một cách hiệu quả trong môi trường đổi mới.
Ngoài cách hiểu thông thường về hệ thống đổi mới quốc gia theo các lát cắt về hoạt động, tổ chức, chính sách, dưới giác độ ngành và vùng, Bản kế hoạch chia hệ thống đổi mới quốc gia Trung Quốc thành 4 bộ phận cấu thành: Hệ thống đổi mới công nghệ (trong đó doanh nghiệp là chủ thể chính); hệ thống đổi mới tri thức (trong đó các viện nghiên cứu công cộng tác với các viện nghiện cứu đại học là chủ thể chính); hệ thống đổi mới quốc phòng (bao gồm cả khu vực dân sự và quốc phòng); hệ thống đổi mới vùng (bao gồm các vùng với các đặc thù và thế mạnh riêng).
Trong điều kiện một nước lớn như Trung Quốc, việc xác định các bộ phận cấu thành của hệ thống đổi mới quốc gia là cần thiết để có các cơ chế thích hợp với các hệ thống đổi mới đặc thù. Cách diễn đạt này thể hiện rất rõ cái gọi là “màu sắc Trung Quốc” trong tư duy và vận hành hệ thống đổi mới quốc gia của Trung Quốc.
Thứ sáu, để thực thi Kế hoạch, Trung Quốc đã ban hành Quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành một quốc gia phát triển theo định hướng đổi mới, đồng thời đưa ra nhiều chính sách bổ sung khác để thực hiện thành công kế hoạch 5 năm lần thứ 11 về KH&CN.
Theo TC KHCN

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)