Ðường sắt khổ 1.000 mm và tiêu chuẩn lựa chọn
Thứ sáu, 04/10/2013 00:00
Nhân việc một số ý kiến cho rằng ĐS khổ 1.000mm cản trở phát triển hệ thống ĐS của thế giới thứ ba, ông Bernard de Fontgalland - nguyên Tổng giám đốc ĐS Pháp (SNCF), nguyên Tổng thư ký UICF phát biểu rằng ý kiến trên thiếu phân tích khách quan và có thể kéo theo sự lãng phí đầu tư nếu không xem xét thấu đáo những tiêu chuẩn lựa chọn.
Nhân việc một số ý kiến cho rằng ĐS khổ 1.000mm cản trở phát triển hệ thống ĐS của thế giới thứ ba, ông Bernard de Fontgalland - nguyên Tổng giám đốc ĐS Pháp (SNCF), nguyên Tổng thư ký UICF phát biểu rằng ý kiến trên thiếu phân tích khách quan và có thể kéo theo sự lãng phí đầu tư nếu không xem xét thấu đáo những tiêu chuẩn lựa chọn.
Nói “đường một mét” chủ yếu là 2 khổ đường 1.000mm và 1.067mm, chiếm khoảng 20% tổng chiều dài ĐS thế giới, nhưng phân bố không đồng đều, ít có ở châu Âu, Nga, Trung Quốc và Bắc Mỹ, nhưng chiếm đa số ở Đông Nam Á, châu Mỹ Latinh và nhất là châu Phi.
Tàu nhanh khổ đường 1.000mm Glacier-Express , Thụy Sĩ.
Có thực tế này là do hàng trăm năm trước, những nhà đầu tư đầu tiên thường xác định mục tiêu chính là giảm chi phí xây dựng và rõ ràng về địa lý một nền đường khổ 1.000mm sẽ chiếm ít diện tích hơn là đường khổ tiêu chuẩn hoặc khổ rộng. Đường 1.000mm bám sát địa hình (dốc, cong) nghiêm ngặt hơn là đường khổ tiêu chuẩn cao tốc. Hơn nữa, lúc đó, vận tốc chỉ là mục tiêu khai thác thứ yếu.
Nhưng hiện nay, người đã ghi nhận là bất kỳ ở đâu thị trường đòi hỏi, ĐS 1.000 mm đều có khả năng vận hành tương đương ĐS tiêu chuẩn. Chỉ có một lĩnh vực – do giới hạn về kinh tế - mà đường 1.000mm chưa đạt được như đường tiêu chuẩn là đường cao tốc tàu khách. Tuy vậy những ram tàu diesel chạy đường dài thường chạy với tốc độ 150 km/h ở Côte-d’Ivoire và ở Nhật từ năm 1973 đã chạy tàu toa thùng nghiêng với tốc độ cao nhất 120 km/h và đạt được tốc độ thương mại khá ấn tượng trên các tuyến khó khăn.
Ở Thụy Sĩ, chiều dài chính thức ĐS khổ hẹp là 1.405,485 km (không kể 198,433 km đường tàu điện), chiếm 27% trong 5.159,172 km tổng chiều dài ĐS, 28 tuyến ĐS khổ hẹp thường không liên tục, trong đó có mạng dài nhất ở vùng núi Alpes, dài 550 km (mạng khổ hẹp dài nhất châu Âu), mỗi năm chuyên chở trên 2,5 triệu lượt hành khách.
Với trên một tỷ hành khách-km, trên 5.000 chỗ làm việc, doanh thu khoảng 300 triệu franc Thụy Sĩ, ĐS khổ hẹp đóng một vai trò quan trọng trong toàn cảnh kinh doanh vận tải ĐS Thụy Sĩ.
Ở Thuỵ Sĩ, ngày 14/7/2009, một sự kiện gây một tiếng vang lớn trong ngành ĐS khi một đoàn tàu khổ một mét chạy tuyến Berne – Soleure đạt một kỷ lục mới về tốc độ: 133,49 km/h!
Thiết bị cơ bản của ĐS (đường, tín hiệu, đầu máy toa xe) là độc lập đối với khổ đường, chỉ có khổ giới hạn quyết định kích thước toa xe. Nhưng qua nghiên cứu, cho thấy hầu hết các khổ giới hạn trên các mạng đường 1.000 mm tương tự khổ giới hạn của đường tiêu chuẩn, có khi còn lớn hơn như trên ĐS Anh. Như vậy sẽ không có trở ngại trong việc chế tạo các toa xe có đặc điểm giống như toa xe đường tiêu chuẩn, có thể chạy trên ray nặng, kéo tàu dài, nặng, và các toa xe khách mật độ chạy tàu cao.
Riêng độ ổn định ngang là khó thực hiện một cách hoàn hảo đối với đường 1.000 mm chạy tốc độ cao, hạn chế do những toa xe dài và rộng có giá chuyển.
Liệu có thể nói xây dựng một tuyến 1.000mm hiện đại năng lực lớn tiết kiệm hơn một đường khổ tiêu chuẩn không? Câu trả lời chỉ có thể được trả lời khi lựa chọn khổ giới hạn cho đường tiêu chuẩn, vì kích thước nền đường gần bằng nhau. Nhưng một điều chắc chắn song chưa phải là quyết định, đó là giảm được khối lượng tà vẹt và ba lát. Ngoài ra, khi tốc độ không phải là mục tiêu ưu tiên, đường 1.000 mm có thể tiết kiệm hết sức lớn trong định tuyến.
Về tiêu chuẩn chọn lựa khổ đường, trước hết cần đề cập tới khái niệm liên thông các mạng đường. Hiện nay vấn đề khác biệt về khổ đường đã được giải quyết một cách thỏa đáng bằng những thiết bị chuyển đổi khổ đường. Ngoài ra, việc sử dụng đường lồng giữa đường khổ 1.000mm và khổ tiêu chuẩn cũng đạt được những kết quả khả quan.
Như vậy, mạng đường 1.000mm chứng tỏ không phức tạp. Năng lực mạng đường đó không bị hạn chế bởi khổ đường, mạng đường đó có thể hiện đại hóa mà không cần thay đổi khổ đường. Việc thay đổi đó thường mang lại những hậu quả giống nhau là bắt ngân sách đài thọ nhiều năm một cách vô ích cho quỹ đầu tư, phức tạp hóa việc khai thác, tổn hại tới những liên kết trong tương lai.
Nguồn: ĐSVN
toan