Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 đã liệt kê 11 hành vi tham nhũng được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (BLHS) ngày 10/5/1997 về các tội tham nhũng. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được ban hành đã dành riêng 01 chương quy định về các tội phạm về chức vụ trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm tham nhũng và 01 mục (mục B) với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác về chức vụ.
1. Bối cảnh sửa đổi các quy định về tội phạm tham nhũng
Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 đã liệt kê 11 hành vi tham nhũng được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (BLHS) ngày 10/5/1997 về các tội tham nhũng. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được ban hành đã dành riêng 01 chương quy định về các tội phạm về chức vụ trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm tham nhũng và 01 mục (mục B) với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác về chức vụ. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng (Luật PCTN) năm 2005 đã quy định 12 hành vi tham nhũng chứ không phải 07 hành vi. Như vậy, các tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A, Chương XXI, BLHS năm 1999 không còn phù hợp với quy định về hành vi tham nhũng của Luật PCTN năm 2005. BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 nhưng không sửa đổi, bổ sung các tội phạm về tham nhũng, nên các tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A, Chương XXI vẫn là 07 tội. Sự không thống nhất này giữa Luật Phòng, chống tham nhũng với Bộ luật hình sự tạo ra những hạn chế, rắc rối trong việc áp dụng các quy định của pháp luật.
Quá trình áp dụng BLHS để xử lý các tội phạm tham nhũng cũng cho thấy, các quy định của Bộ luật hình sự 1999 còn có nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này và điều kiện, tình hình phát triển mới về mọi mặt của đất nước. Có thể kể đến như một số quy định về chế tài xử lý, tình tiết định khung hình phạt… còn mang tính định tính, chung chung, khó xác định để áp dụng trong thực tế điều tra, xét xử tội phạm tham nhũng, việc bó hẹp phạm vi tội phạm tham nhũng trong khu vực nhà nước gây ra những khó khăn trong quá trình thực hiện trước thực tế kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, mối liên hệ công – tư ngày càng được mở rộng cùng với đó là sự liên kết cùng thực hiện hành vi tham nhũng, định lượng về giá trị tiền, tài sản tham ô, chiếm đoạt, của hối lộ, định lượng tiền phạt… không còn phù hợp với mặt bằng phát triển kinh tế hiện nay, các hình phạt còn chưa chú trọng nhiều đến hiệu quả thu hồi tiền, tài sản thất thoát cho nhà nước… Những điểm không phù hợp, hạn chế, vướng mắc này cần phải được sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa nhằm giúp cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng đúng đắn, dễ dàng, phù hợp hơn với thực tế, tăng tính khả thi.
Kết quả rà soát, đánh giá các quy định của BLHS năm 1999 với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng cho thấy, pháp luật hình sự của Việt Nam chưa thực sự tương thích với các yêu cầu về hình sự hóa quy định tại Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) như mở rộng tội phạm tham nhũng ra khu vực tư, hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp, đưa lợi ích phi vật chất vào cấu thành tội nhận hối lộ… Những vấn đề này đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 về tội phạm chức vụ nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng nhằm bảo đảm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, cũng như bảo đảm thực thi các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết, tạo cơ sở pháp lý cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế.
Ngoài ra, nhiều định hướng và chính sách mới liên quan đến tội phạm tham nhũng của Đảng và Nhà nước cũng được ban hành đòi hỏi các quy định về tội phạm tham nhũng của BLHS phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với định hướng chung đó. Trong đó có các chủ trương quan trọng như: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”[1].
“Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả”[2].
Chính vì vậy, các quy định về tội phạm tham nhũng cần phải sửa đổi, bổ sung để tiệm cận dần với thông lệ quốc tế, với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước, thể chế hóa chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước đối với tội phạm tham nhũng và đáp ứng đòi hỏi của công cuộc chống tham nhũng trong tình hình mới.
2. Lý do và nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể về tội phạm tham nhũng
Trước bối cảnh và yêu cầu đặt ra, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số chính sách lớn đối với tội phạm về tham nhũng như sau: (i) Mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm về chức vụ để có thể xử lý được một số hành vi phạm tội về chức vụ nói chung và hành vi phạm tội về tham nhũng nói riêng xảy ra trong khu vực tư (ngoài nhà nước) như tham ô tài sản, nhận hối lộ...; (ii) Mở rộng nội hàm “của hối lộ” cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; (iii) Sửa đổi, bổ sung một số cấu thành tội phạm; (iv) Bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với một số tội, quy định cụ thể các tình tiết định tội, định khung hình phạt; (v) Nâng mức định lượng tiền là tình tiết định tội, định khung hình phạt; (vi) Bổ sung một số chính sách về xử lý tội phạm tham nhũng. Cụ thể như sau:
a. Mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm tham nhũng ra khu vực tư (ngoài nhà nước)
Các quy định của BLHS năm 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham nhũng trong khu vực công (do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện) mà chưa ghi nhận về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư và vì vậy, chưa có các quy định pháp luật tương ứng, kèm theo các biện pháp xử lý hình sự đối với loại tội phạm này, mặc dù, một số hành vi tương tự xảy ra trong khu vực tư, theo quy định của BLHS vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, thực tiễn về việc xử lý hành vi tham nhũng đối với tài sản của doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước, trong đó có sự đan xen về sở hữu mà trong nhiều trường hợp không thể tách biệt giữa tài sản, phần vốn góp của Nhà nước với tài sản, phần vốn góp của tư nhân, việc xác định xử lý trách nhiệm của cá nhân là người có chức vụ, quyền hạn trong loại hình doanh nghiệp này rất khó khăn.
Do đó, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng:
Một là, mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm chức vụ (trong đó có tội phạm tham nhũng) để có thể bao gồm cả các tội phạm về chức vụ trong khu vực tư (ngoài Nhà nước), cụ thể là mở rộng chủ thể thực hiện tội phạm không chỉ là người có chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các cơ quan nhà nước), mà còn là người có chức vụ trong khi thực hiện “nhiệm vụ” (tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước).
Hai là, BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi các tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đối với các tội danh sau: Tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ. Cụ thể là khoản 6 Điều 353 (tội tham ô tài sản) quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”; khoản 6 Điều 354 (tội nhận hối lộ) quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”.
b. Mở rộng nội hàm “của hối lộ” tại các điều khoản liên quan đến tội phạm tham nhũng
Theo quy định của BLHS năm 1999, để có thể xử lý được người phạm tội thì “của hối lộ” trong cấu thành tội nhận hối lộ và một số tội phạm chức vụ liên quan như: đưa hối lộ, môi giới hối lộ... phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá được bằng tiền. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng cho thấy, bên cạnh việc dùng tiền hay các lợi ích vật chất khác để hối lộ người có chức vụ, quyền hạn thì lợi ích tinh thần bao gồm nhiều hình thức khác nhau có thể mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người thụ hưởng (ví dụ tình dục, vị trí, việc làm...) cũng được các đối tượng sử dụng để hối lộ nhằm đạt được mục đích của mình. Đây cũng là yêu cầu của UNCAC, theo đó, các quốc gia thành viên phải quy định nội hàm “của hối lộ” hoặc những thiệt hại do tham nhũng gây ra là những lợi ích bất chính, tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, vô hình hoặc hữu hình, vật chất hoặc tinh thần, tiền tệ hoặc phi tiền tệ. Khoản 2 Điều 15 UNCAC quy định yếu tố khách quan bắt buộc trong cấu thành tội nhận hối lộ là lợi ích không chính đáng mà người thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhận được có thể dành cho chính bản thân công chức hoặc cho người khác, ví dụ, họ hàng người thân của công chức đó, hoặc có thể dành cho một thực thể khác.
Khoản 1 Điều 354 (tội nhận hối lộ) Bộ luật hình sự 2015 đã quy định rõ yêu cầu này, cụ thể là: “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) BLHS năm 2015 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào các cấu thành định tội đối với lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi và một số tội phạm khác về chức vụ như tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.
c. Tăng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tham ô, chiếm đoạt, của hối lộ
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là một trong các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự cơ bản của hầu hết các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, có thể thấy, BLHS năm 1999 chưa có sự phân hóa phù hợp về giá trị tài sản giữa các khung trong một điều luật cụ thể, chưa bảo đảm mức độ tương xứng giữa giá trị tài sản và mức hình phạt trong khung, cũng như chưa phù hợp với tình hình phát triển mới về kinh tế - xã hội và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, để bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn xử lý loại tội phạm này, phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế, đồng thời nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm mức độ tương xứng giữa hình phạt với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội khi căn cứ vào giá trị tiền, tài sản tham ô, của nhận hối lộ hoặc thu lời bất chính, BLHS năm 2015 đã nâng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tại các điều khoản có liên quan. Cụ thể: BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung mức định lượng giá trị tiền, tài sản đối với nhóm tội liên quan đến hối lộ: (i) Nâng giá trị tiền, tài sản là căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 các Điều 354 (tội nhận hối lộ) từ “2 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng” theo quy định tại điều khoản tương ứng của BLHS năm 1999 lên “từ 2 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng”; (ii) Nâng giá trị tiền, tài sản quy định tại khoản 2 “từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng” theo quy định của BLHS năm 1999 lên “từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng”; (iii) Nâng giá trị tiền, tài sản quy định tại khoản 3 từ “50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng” theo quy định của BLHS năm 1999 lên “từ 500 triệu đồng đến 01 tỉ đồng”; (iv) Nâng giá trị tiền, tài sản quy định tại khoản 4 từ “từ 300 triệu đồng trở lên” theo quy định của BLHS năm 1999 lên “từ 01 tỉ đồng trở lên”.
d. Bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với một số tội và bổ sung các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng
Cũng giống như hầu hết các quy định của BLHS năm 1999 về các nhóm tội phạm cụ thể khác, các quy định về tội phạm tham nhũng còn nhiều hạn chế, dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội chưa rõ ràng cụ thể, nhiều tình tiết có tính chất “định tính”, gây khó khăn cho việc áp dụng để xử lý tội phạm. Hơn nữa, một số quy định về tội phạm chức vụ còn quá đơn giản, chưa dự liệu được hết các trường hợp phạm tội có tính nghiêm trọng hơn, do đó, chỉ thiết kế một hoặc hai khung hình phạt. Để bảo đảm tính minh bạch của các quy định, bảo đảm cá thể hóa trách nhiệm hình sự cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa các tình tiết định tính “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, bổ sung nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với hầu hết các tội phạm về tham nhũng. Cụ thể như sau:
- Tội tham ô tài sản (Điều 353): Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm đ, e, g, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, c, d khoản 3.
- Tội nhận hối lộ (Điều 354): Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm d, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 3; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 4.
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm đ, e khoản 2, bỏ tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” theo Điều 280 BLHS 1999; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, c, d khoản 3; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 4.
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Bổ sung tình tiết định khung hình phạt tại khoản 1; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm c, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản 3.
- Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Bổ sung tình tiết định khung hình phạt tại khoản 1; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm c, khoản 2; Sửa đổi khung hình phạt và bổ sung tình tiết định khung hình phạt tại khoản 3, 4.
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi: Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm d, khoản 2; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 3; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản 4.
- Tội giả mạo trong công tác: Sửa đổi định khung hình phạt tại điểm c, khoản 2; Sửa đổi, bổ sung định khung hình phạt tại khoản 3, 4.
e. Tăng mức định lượng, cụ thể hóa số tiền phạt đối với các tội phạm về tham nhũng
Định lượng về tiền phạt đối với một số tội danh tham nhũng của Bộ luật hình sự 1999 không còn phù hợp với thực tế tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam, chưa tương xứng với hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra nên cần phải có sự điều chỉnh nâng lên cho phù hợp. Một số tội danh, mức phạt chưa được cụ thể hóa mà để theo mức độ giá trị tiền và tài sản mà người tham nhũng có được khi thực hiện hành vi tham nhũng cũng chưa hợp lý vì tiền và tài sản có được đó phải bị tịch thu còn tiền phạt thì cần được quy định cụ thể căn cứ vào tội danh nên BLHS 2015 sửa đổi theo hướng cụ thể hóa mức tiền phạt. Cụ thể như sau:
Tội tham ô tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: nâng mức phạt từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng lên từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng.
Tội nhận hối lộ và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi trước đây tiền phạt có thể bằng một hoặc gấp 5 lần số tiền hoặc giá trị tài sản mà người đó có được thì theo quy định mới của BLHS 2015, có thể bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng.
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, tội giả mạo trong công tác nâng mức phạt từ 3 triệu đến 30 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng.
f. Bổ sung một số chính sách mới liên quan đến việc xử lý tội phạm tham nhũng
Một là, để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng, Điều 28 BLHS năm 2015 bổ sung trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô tài sản đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353, tội nhận hối lộ đặc biệt nghiệm trọng quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354. Đối với các trường hợp này, bất kể thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý.
Hai là, nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần thực hiện chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị là giảm hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho nhà nước và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng. Điều 40 BLHS năm 2015 quy định “người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn” thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
3. Một số giải pháp, kiến nghị
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi tham nhũng của Luật Phòng, chống tham nhũng cho thống nhất với quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015. Bộ luật hình sự và Luật Phòng, chống tham nhũng đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung điều khoản liên quan đến hành vi tham nhũng và tội phạm tham nhũng, có nhiều quan điểm và ý kiến được đưa ra nhưng sau lần sửa đổi mới nhất này, Bộ luật hình sự vẫn giữ nguyên quy định tội phạm tham nhũng đối với 7 hành vi tham nhũng, trong khi đó Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành cũng như dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi vẫn quy định về 12 hành vi tham nhũng. Điều này gây nên những rắc rối, phức tạp, thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Có hành vi được xác định là hành vi tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện nay không có chế tài hình sự và cũng không có chế tài hành chính cụ thể, riêng biệt nào để xử lý. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng cũng không có thống kê liên quan đến việc phát hiện và xử lý các hành vi này. Bởi vậy, cần sớm điều chỉnh lại các quy định của Luật phòng chống tham nhũng cho thống nhất với quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Hai là, cần ban hành văn bản hướng dẫn một số quy định về tội phạm về chức vụ nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng để thuận tiện trong áp dụng pháp luật một cách thống nhất, bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng. Ví dụ như hướng dẫn cụ thể về lợi ích phi vật chất trong cấu thành định tội, hướng dẫn một số từ ngữ mang tính chất định tính, khó xác định trên thực tế như “lập công lớn”…
Ba là, BLHS năm 2015 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với 2 nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi trường. Tuy nhiên, đối với nhóm tội phạm được thực hiện bởi các pháp nhân thì chưa đặt ra. Điều này cũng thể hiện sự thiếu tương thích của BLHS với yêu cầu UNCAC. Chính vì vậy, trong giai đoạn tiếp theo, cần nghiên cứu mở rộng phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự cho nhóm tội phạm về tham nhũng.
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu hệ thống các văn bản liên quan, sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện cho việc tiến tới tội phạm hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp của công chức do lợi dụng chức vụ theo như khuyến nghị tại Điều 20 UNCAC: “Trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng lên đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể”. Vì vậy, Việt Nam nên tiến tới hình sự hóa hành vi này để xử lý bằng các chế tài hình sự vì bản thân nó là một loại tham nhũng (lợi dụng chức vụ nhằm trục lợi bất chính), làm tổn hại uy tín của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, việc kiểm soát tài sản, thu nhập thực tế của cán bộ, công chức bằng các công cụ pháp lý tại Việt Nam hiện nay còn mang tính hình thức như: Quy định về kê khai tài sản, công khai bản kê khai tài sản, giải trình nguồn gốc phần tài sản tăng thêm, việc xác minh tài sản, thu nhập,… Do vậy, chúng ta chưa thể hình sự hoá ngay được do quy định trong các văn bản luật khác chưa tương thích. Vì vậy, cần phải cân nhắc, nghiên cứu tổng thể để tiến hành sửa đổi.
Năm là, sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng, mở rộng phạm vi điều chỉnh ra khu vực tư cho tương thích với quy định của Bộ luật hình sự 2015. Hiện nay, BLHS đã mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm cả khu vực ngoài nhà nước đối với tội tham ô, nhận hối lộ; hoàn thiện cấu thành của một số nhóm tội đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tham nhũng; quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân… Bên cạnh đó, chu trình đánh giá tiếp theo đối với Chương II về phòng ngừa tham nhũng và Chương IV về thu hồi tài sản của UNCAC bắt đầu từ năm 2016 đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước một cách toàn diện, sâu rộng như các biện pháp nhận diện và kiểm soát xung đột lợi ích; xây dựng và tuân thủ các nguyên tắc liêm chính trong hoạt động kinh doanh; thực hiện các biện pháp và cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả… Chính vì vậy, Luật PCTN sửa đổi cần mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư để tạo sự nhất quán với Bộ luật hình sự 2015, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác PCTN, nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, phù hợp với một số văn bản luật có liên quan.
Sáu là, bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tiền là hình phạt chính đối với một số tội phạm về tham nhũng. Chế tài đối với tội phạm về chức vụ hiện nay tương đối nghiêm khắc, loại hình phạt chủ yếu là tù. Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW về hoàn thiện chính sách xử lý người phạm tội theo hướng giảm khả năng áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không mang tính giam giữ như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm chức vụ ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng cần bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ tại một số tội cấu thành cơ bản, nhằm tạo tính linh hoạt cho Tòa án xem xét áp dụng hình phạt phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, về bản chất của các tội phạm về chức vụ là có tính chất vụ lợi, thông thường nhân thân người phạm tội là tốt, do đó, đối với tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng thì việc áp dụng một số chế tài không giam giữ như hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ cũng bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa tội phạm./.
Nguyễn Thị Thu Nga
Viện Khoa học Thanh tra
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020).
[2] Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.