Phú Thọ: Phát triển giao thông nông thôn

Thứ tư, 29/12/2010 07:48 GMT+7
Những năm qua Phú Thọ luôn xác định giao thông phải đi trước một bước. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tranh thủ tối đa các nguồn lực đầu tư từ các bộ, ngành trung ương cho giao thông.

Trong mọi thời kỳ, giao thông nói chung và giao thông nông thôn (GTNT) nói riêng luôn đóng vai trì quan trọng trong việc thơc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu thương mại. Chính v vậy, những năm qua Phú Thọ luôn xác định giao thông phải đi trước một bước. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tranh thủ tối đa các nguồn lực đầu tư từ các bộ, ngành trung ương cho giao thông. Công tác phát triển GTNT còn được xã hội  với sự tham gia tích cực của các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế cũng còn bộc lộ một số hạn chế cần rút kinh nghiệm để phát triển GTNT trong giai đoạn mới toàn diện hơn.

Thực trạng phát triển mạng lưới GTNT

Ông Đặng Trần Minh- Phó GĐ Sở GTVT khẳng định: Thực tế trong 10 năm trở lại đây, mạng lưới GTNT toàn tỉnh đã được quan tâm chú trọng đầu tư bằng nhiều nguồn lực, song do xuất phát điểm thấp, điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn nên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận những kết quả đã làm vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Hiện nay, tổng số đường GTNT của toàn tỉnh là 9.791km, bao gồm 780km đường huyện, 2.578km đường xã, 5.410 km đường trục thôn xóm ngõ xóm, 1.023km đường ra đồng lên đồi. Đến năm 2010, toàn tỉnh mới cứng hoá mặt đường được 3.300km, đạt 33%. So với nhiều địa phương khác trong cả nước thì chất lượng mạng lưới GTNT ở tỉnh Phú Thọ hiện còn thấp, hàng năm vốn đầu tư cho giao thông cũng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, khối lượng đường cần được cải tạo nâng cấp còn rất lớn… Trong khi nguồn lực của tỉnh còn hạn chế, giá cả thị trường luôn biến động, đời sống nhân dân, nhất là ở các xã miền núi, vùng sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn… Đây chính là những thách thức lớn đối với việc phát triển GTNT giai đoạn tới.

Giai đoạn 2011- 2015, với mục tiêu phấn đấu: 100% đường huyện, 50% đường GTNT được cứng hoá mặt đường, dự kiến toàn tỉnh sẽ tiếp tục huy động một nguồn lực đáng kể: hơn 5.300 tỷ đồng cho đầu tư nâng cấp mạng lưới đường GTNT. Để quá trình đầu tư đạt hiệu quả cao, trước hết các địa phương cần làm tốt công tác quy hoạch, thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình dự án cho giao thông, tập trung đầu tư theo thứ tự ưu tiên, tránh chồng chéo, lãng phí trong đầu tư. Đặc biệt giai đoạn tới, phát triển giao thông phải gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Hiện nay, đang nảy sinh một thực tế: Đường giao thông theo chương trình cứng hoá của tỉnh những năm qua chưa đáp ứng được tiêu chí đường giao thông trong xây dựng nông thôn mới. Vì xét theo tiêu chí của nông thôn mới, đường giao thông trong khu dân cư phải đảm bảo mặt đường từ 4-5m, trong khi chương trình cứng hoá mặt đường bằng BTXM những năm qua chủ yếu hỗ trợ đầu tư cứng hoá mặt đường 2-3m. Vì vậy, giai đoạn tới cần: Tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá GTNT, tuyên truyền vận động các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân tích cực đóng góp làm đường GTNT. Xây dựng cụ thể, rõ ràng cơ chế quản lý sau đầu tư để nâng cao hiệu quả sử dụng công trình. Nghiên cứu điều chỉnh quy mô, tăng mức hỗ trợ đầu tư đối với đường liên huyện, liên xã, liên thôn để đáp ứng nhu cầu vận tải và đi lại của nhân dân, đáp ứng các tiêu chí về đường giao thông trong xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế hỗ trợ các xã vùng sâu, vùng xa, các xã vùng đất giữa còn nhiều khó khăn, các xã có làng nghề và làng có nghề… trong việc nâng cấp các tuyến đường, nhất là những tuyến đường có vị trí quan trọng nhưng chưa vào cấp để tạo điều kiện phát triển KT-XH cho các địa phương trong toàn tỉnh.                        

Những bài học kinh nghiệm và hướng phát triển
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển GTNT những năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế cần rút kinh nghiệm: Thứ nhất là nhiều địa phương mặc dù đã có quy hoạch tổng thể về phát triển mạng lưới giao thông, song lại chưa có quy hoạch chi tiết cho từng xã, từng khu dân cư dẫn đến việc đầu tư xây dựng thiếu đồng bộ, việc cứng hoá mặt đường còn dàn trải, kết cấu quy mô công trình chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải. Đa số các xã, thị trấn trong quá trình đầu tư mới chỉ chú trọng tới việc cứng hoá mặt đường giao thông, chưa chú ý tới việc đầu tư xây dựng hệ thống tiêu thoát nước thải trong các khu dân cư. Thứ hai là phong trào phát triển GTNT chưa đồng đều ở tất cả các địa phương trong tỉnh, một số nơi vẫn còn tư tưởng ỉ lại, trông chờ kinh phí nhà nước, trong khi công tác chỉ đạo lại chưa sâu sát, chưa có nhiều giải pháp huy động các nguồn lực trong dân và các nguồn khác nên khối lượng thực hiện còn hạn chế. Đặc biệt là ở những xã vùng đồi, vùng đất giữa và các xã miền núi do huy động các nguồn lực trong dân để cứng hoá mặt đường khó khăn, nên tỷ lệ đường đất lớn, chất lượng kém, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân. Cũng do khó khăn về huy động vốn đã dẫn đến tình trạng đầu tư nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch, nhiều tuyến đường chưa phát huy tốt hiệu quả sau đầu tư. Thứ ba là một số địa phương chất lượng thi công mặt đường bê tông xi măng, đá răm hỗn hợp chưa đảm bảo đúng kỹ thuật về độ chặt nền đường đắp, tỷ lệ cấp phối, kỹ thuật khe co giãn bê tông; công tác bảo dưỡng bê tông sau khi đổ và bảo trì công trình sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng chưa được quan tâm đúng mức… dẫn đến một số công trình mới sử dụng một thời gian ngắn đã bị xuống cấp. Hàng năm kế hoạch hỗ trợ xi măng và đá răm tận dụng chậm, vốn hỗ trợ từ ngân sách các cấp so với yêu cầu thực tế còn thấp, thiếu chủ động. Việc quản lý đường giao thông sau đầu tư cũng bộc lộ hạn chế như: Nhiều khu dân cư chưa quan tâm đến công tác bảo trì, bảo dưỡng và giữ vệ sinh các tuyến giao thông sau khi được cứng hoá bằng BTXM, dẫn đến tình trạng nhiều đoạn đường bê tông trong khu dân cư thường xuyên bị ứ đọng rác thải, nước thải, vứt xả rác bừa bãi khiến môi trường sống bị ô nhiễm, đường giao thông nhanh hỏng, nhanh xuống cấp… Những mặt hạn chế này cần được nhìn nhận khách quan, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm trong công tác đầu tư và quản lý sau đầu tư đối với các công trình GTNT trên địa bàn toàn tỉnh.

Là tỉnh trung du miền núi, vị trí địa lý của tỉnh nằm ở vùng thường xảy ra thiên tai như bão lụt, lũ quét, gây thiệt hại về nhiều mặt, trong đó có các công trình giao thông nên tỉnh Phú Thọ đã xác định giao thông phải đi trước một bước. Nếu như ở giai đoạn 1997- 2000, chương trình phát triển giao thông nông thôn tập trung thực hiện mục tiêu: Xoá xã trắng đường ô tô đến trung tâm các xã thì đến giai đoạn 2001- 2005, Nghị quyết 01 về phát triển GTNT của Tỉnh ủy  lại xác định lấy việc cứng hoá mặt đường làm khâu đột phá. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhà nước hỗ trợ xi măng, nhân dân đóng góp vật liệu, công lao động làm đường, các huyện, thành, thị trong tỉnh đã triển khai chủ trương thực hiện xuống tất cả các xã, phường, thị trấn trên tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và cuối cùng là dân hưởng lợi để tiến hành cứng hoá các tuyến giao thông trong khu dân cư. Giai đoạn 2006- 2010, thực hiện Nghị quyết 42 về phát triển GTNT, phong trào làm đường bê tông xi măng tiếp tục được phát triển mạnh trong toàn tỉnh, nhiều xã nghèo đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn hăng hái vận động nhân dân làm đường bê tông. Một số xã đã có phong trào làm đường bê tông mạnh từ giai đoạn trước tiếp tục vận động nhân dân tự bỏ 100% kinh phí hoàn thành nốt các tuyến đường trong các ngõ xóm, ưu tiên xi măng cho những khu khó khăn hơn. Nhiều địa phương nhân dân tự nguyện hiến đất, chặt bỏ cây cối hoa màu để làm đường mà không cần bồi thường như ở huyện Đoan Hùng, Thanh Ba, Thanh Thủy... Việc huy động vốn được thực hiện đa dạng từ nhiều nguồn, trong đó tranh thủ tối đa các nguồn vốn của Trung ương, của các bộ, ngành và lồng ghép có hiệu quả từ các chương trình, dự án như: GTNT 3, WB, ODA, ADB, 134, 135, ATK…; nguồn ủng hộ đóng góp từ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm và toàn thể nhân dân. Nổi lên trong quá trình huy động vốn là vai trò của các tổ chức đoàn thể: MTTQ, hội nông dân, CCB, phụ nữ, đoàn thanh niên… Nhiều đoàn thể đã tích cực vận động các cơ quan doanh nghiệp làm đường vào các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Kết quả trong 5 năm 2006-2010, toàn tỉnh đã làm mới được 303,4km đường giao thông (thực hiện gấp 10 lần so với KH ban đầu), cải tạo nâng cấp được 3.958km (vượt 7%KH), trong đó đường bê tông xi măng là 1.266,5km; đường đá răm nhựa: 687,8km; đường đá răm hỗn hợp: 307km; đường cấp phối: 1.088,4km; ngoài ra còn thực hiện xây mới 70 cầu, 25 tràn… Tổng nguồn vốn huy động đầu tư đạt 3.977 tỷ đồng, gấp hơn 4 lần so với giai đoạn 2001-2005, trong đó đáng chú ý nhân dân đóng góp gần 460 tỷ đồng gồm tiền, vật tư, công lao động, giá trị hiến đất và  cây cối hoa màu khi thực hiện các dự án mở mới đường giao thông, mở rộng nền đường. Kết thúc giai đoạn 2006- 2010 với sự quyết tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, mạng lưới  GTNT đã được quy hoạch cụ thể, quá trình đầu tư xây dựng gắn với  việc nâng cấp các tuyến đường hiện có, phù hợp với quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất nên mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng. Chính vì vậy mạng lưới giao thông nông thôn trong tỉnh đến nay không ngừng được mở rộng, nâng cấp, tạo động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và các địa phương nói riêng, khơi dậy tiềm năng của các vùng trước đây còn kém phát triển như Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập… Bộ mặt khu vực nông thôn đã thay đổi cơ bản, tỷ lệ đường GTNT được cứng hoá đạt 33%, riêng đường huyện tỷ lệ cứng hoá đạt 65% giúp cho việc đi lại thuận lợi, hàng hoá thông thương, ngành nghề phát triển, tạo nên diện mạo mới cho tỉnh ta trên đường CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn.


Báo Phú Thọ

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)