Chủ nhật, ngày 29/12/2024

Thực trạng người bệnh chấn thương ngực kín trên người bệnh đa chấn thương do TNGT nhập viện tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức năm 2022-2023

Thứ bẩy, 25/11/2023 09:14 GMT+7

Thực trạng người bệnh chấn thương ngực kín trên người bệnh đa chấn thương do TNGT nhập viện tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức năm 2022-2023. Đây là bài nghiên cứu của nhóm tác giả: Nguyễn Xuân Vinh, Trung tâm Tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức; Phí Thị Mai Chi, Trung tâm Khám cấp cứu và điều trị ban ngày, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức; Khang Thị Diên, Trung tâm Gây mê và hồi sức, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.

Chấn thương ngực là nguyên nhân gây tử vong phổ biến thứ ba sau chấn thương bụng và chấn thương sọ não ở bệnh nhân đa chấn thương. Mục đích của nghiên cứu này là điều tra dịch tễ học, điều trị chăm sóc và kết quả của bệnh nhân đa chấn thương với chấn thương ngực kín nhằm giúp cải thiện việc quản lý, ngăn ngừa biến chứng và giảm tỷ lệ tử vong của bệnh nhân đa chấn thương Hồi cứu bao gồm tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là đa chấn thương với chấn thương ngực kín được đưa vào khoa cấp cứu của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong khoảng thời gian 2 năm, từ tháng 3 năm 2022 đến tháng 2 năm 2023. Người bệnh được chọn vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu bao gồm chi tiết về tình trạng lâm sàng nhập viện, điều trị và kết quả. Các bệnh nhân bị chấn thương ngực và có Điểm mức độ nghiêm trọng của chấn thương (ISS) ≥ 18 và Thang điểm chấn thương rút gọn (AIS) > 2 ở nhiều vùng cơ thể được đưa vào nghiên cứu.

Tổng cộng có 123 bệnh nhân đa chấn thương với chấn thương ngực kín đã thu nhận được. 93 là nam giới và độ tuổi trung bình là 34,5 tuổi. Tai nạn ô tô và tai nạn xe máy là những nguyên nhân phổ biến nhất (> 78%) đối với chấn thương ngực kín. Gãy xương sườn (86%), tràn máu màng phổi (73%) và dập phổi (34%) là những chấn thương ngực phổ biến nhất. các triệu chứng hô hấp có thể đánh giá được trên lâm sàng được ghi nhận là: Khó thở (72%), huyết áp thấp do mất máu (48%), phổi xẹp không giản nở bình thường (32%), lạo xạo khi sờ nắn lồng ngực (54%), bầm tím thành ngực 36%.

Hầu hết bệnh nhân (66,5%) bị chấn thương ngực nghiêm trọng (AIS ngực 3), 17,1% bị chấn thương ngực nặng (AIS ngực 4) và 15,5% bị chấn thương ngực vừa phải (AIS ngực 2). 92% bệnh nhân chấn thương ngực kín được điều trị bảo tồn. Đặt ống dẫn lưu màng phổi được chỉ định ở 64,5% bệnh nhân. Chỉ định đặt đẫn lưu màng phổi cao hơn đáng kể trong nhóm AIS ngực 4 so với nhóm AIS 3 và 2 (p < 0,001). Ngoài ra, nhập viện nằm hồi sức tịch cực có liên quan trực tiếp đến mức độ nghiêm trọng của AIS ngực (p <0,001). Mức độ nghiêm trọng của chấn thương ngực không tương quan với thời gian nằm ICU, số ngày đặt nội khí quản, số ngày thở máy, tỷ lệ tử vong.

Mặc dù 74,3% bệnh nhân bị chấn thương ngực nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, cả nhóm điều trị bảo tồn và phẫu thuật đều không quan sát thấy tác động đáng kể của mức độ nghiêm trọng của chấn thương đối với thời gian nằm ICU, ngày đặt nội khí quản, thở máy biến chứng hoặc tử vong. AIS ngực chỉ liên quan đến tỷ lệ đặt ống dẫn lưu màng phổi và nhập viện ICU. Xử trí bằng đặt ống thông ngực sớm khi cần thiết, kiểm soát cơn đau và chăm sóc lý liệu pháp hô hấp cho kết quả tốt ở đa số bệnh nhân. 

Nội dung chi tiết bài nghiên cứu XEM TẠI ĐÂY.

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)