Giải pháp xử lý nên đất yếu, kinh nghiệm trong quản lý và thực tiễn triển khai

Ngày 28/04/2009
Bất kỳ một quốc gia nào, muốn phát triển kinh tế xã hội nhanh, mạnh, hiệu quả đều cần phát triển hệ thống hạ tầng giao thông. Mạng lưới đường giao thông được xem như "mạch máu' phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Bất kỳ một quốc gia nào, muốn phát triển kinh tế xã hội nhanh, mạnh, hiệu quả đều cần phát triển hệ thống hạ tầng giao thông. Mạng lưới đường giao thông được xem như "mạch máu' phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Mạng lưới giao thông đường bộ của Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 256.000km, gồm đường quốc lộ 14.935km (chiếm 7,1%), đường tỉnh 17.450km (chiếm 8,3%), đường đô thị 3210km (chiếm 1,5%), đường huyện 36.900km (chiếm 17,6%) còn lại là đường liên thôn, liên xã và các trục đường chuyên dụng khác. Tuy nhiên, hiện Việt Nam mới có bước khởi đầu nhỏ bé trong chiến lược cải tạo, nâng cấp các đường quốc lộ (QL) như: QL5, QL1A, QL18, QL2, QL3,... và các đoạn đường tiệm cận với đường bộ cao tốc như: Pháp Vân - Cầu Giẽ, Cầu Giẽ - Ninh Bình, TP. Hồ Chí Mình - Long Thành - Dầu Giây,...
Đến năm 2020 tổng giá trị dự tính đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông khoảng 1 triệu tỷ đồng (60 tỷ USD). Trong đó, mạng lưới đường bộ cao tốc gồm 22 tuyến với tổng chiều dài 5.873km với tổng mức đầu tư dự kiến theo kế hoạch khoáng 48 tỷ USD đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Như vậy, chúng ta có thể định hướng được "sức vóc" và tiềm năng của công tác quăn lý - tư vấn - thi công các công trình giao thông là vô cùng to lớn. Những trách nhiệm vô cùng nặng nề cho đội ngũ kỹ sư chuyên gia đầu ngành hoạt động trong lĩnh vực xây dựng Giao thông Việt Nam.
Nhìn lại công tác quản lý - tư vấn - thi công các công trình giao thông trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, chúng ta còn có nhiều tồn tại: Nhiều công trình xây dựng chưa đạt được như ở các nước phát triển, công trình nào cũng phát sinh khối lượng rất lớn, dự toán thường cao hơn tổng mức đầu tư gây khó khăn cho công tác quản lý dự án. Đặc biệt là tạo ra dư luận xã hội không tốt trong việc nhìn nhận công tác xây dựng giao thông.
Trong thực tế triển khai thi công các dự án đầu tư xây dựng giao thông chúng tôi nhận thấy những bất cập trong nhận thức đối với công tác tư vấn thiết kế (TVTK), giám sát công trình cũng như quản lý dự án là: Có quan niệm cho rằng: Thiết kế là việc của TVTK và tư vấn thẩm tra. Người quản lý dự án là người đôn đốc để rút ngắn thời gian thiết kế và hồ sơ sớm được phê duyệt là hoàn thành trách nhiệm. Thậm chí côn có ý kiến: Người làm công tác quản lý chỉ là người lo thủ tục và giải quyết nhanh các thủ tục đó. Như vậy, khâu thiết kế chỉ là một "thủ tục" trong công tác chuẩn bị và triển khai dự án đầu tư xây dựng công trình. Chính bởi có các quan niệm như vậy nên trên thực tế chúng ta dễ dàng nhận thấy các hậu quả của nó. Khi người quản lý dự án cần chủ động quan tâm đến khâu thiết kế để lựa chọn được các giải pháp thiết kế chuẩn xác thì khi triển khai sẽ ít gặp rủi do, công trình đảm bảo chất lượng, giảm thiểu các khối lượng phát sinh.
Đối với giải pháp thiết kế xử lý nền đất yếu. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất đến tiến độ cũng như chất lượng công trình là ở năng lực của công tác tư vấn. Cụ thể là:
- Công tác lựa chọn và vạch tuyến: Cán bộ tham gia khảo sát, vạch tuyến thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên vạch tuyến không tối ưu. Không tránh được các vị trí có địa chất phức tạp, đòi hỏi xử lý tốn kém.
- Công tác khảo sát địa chất công trình và thí nghiệm xác định các chỉ tiêu cơ lý của đất nền chưa phản ánh đúng địa tầng dưới nền đường (một phần do ít lỗ khoan – thưng 1 lỗ/km). Có nhiều trường hợp lấy kết quả khảo sát địa chất ở bước dự án để làm tài liệu cho bước thiết kế bản vẽ thi công. Từ đó dẫn đến việc đưa ra các giải pháp xử lý thiếu chính xác.
- Công tác thiết kế xử lý nền đất yếu còn máy móc, "sách vở". Phần lớn kỹ sư thiết kế hiện nay thiếu kinh nghiệm thi công thực tế, việc đưa ra cách xử lý thường dựa vào các "định hình, có sẵn và thiên về an toàn thiếu nghiên cứu một cách thấu đáo để đưa ra biện pháp xử lý đơn giản nhưng hiệu quả.

TT
Công trình
Năm TH
Nguyên nhân và giải pháp
Hiệu quả
đem lại
I
Trường hợp nền đường đắp thấp (Hđ<3m)
 
 
 
 
1
Đầu bến Phà Rừng
400m phía Hòn Gai, gói thầu số 5 thuộc QL10.
 
 
2004
Thiết kế nền đường rộng 7m đắp trên nền đất yếu ven biển không xử lý.
Đào bỏ đất yếu với chiều dày từ 1-
1,5m và thay bằng vật liệu đắp thông thường kết hợp vi lu rung đạt độ chặt K95.
Nền mặt đường
hiện tại vẫn ổn
định, không bị
lún sụt.
 
 
2
 
Tuyến QL18 tuyến
Đông Du - Phả Lại.
2000 - 2002
Sử dụng cọc tre đại 3m, mật độ
25cọc/m2 đóng dưới móng cống. Cọc tre vừa có tác dụng xử lý nền đường vừa làm cho cống lún theo nền đường tạo êm thuận cho mặt đường:
Hiện tại tất cả
các cống vẫn
hoạt động tốt,
nền đường không bị lún cục
bộ.
 
3
Dự án đường trục
khu đô thị Văn
Giang - Hưng Yên
 
- QL 27 Ninh Thuận, gói thầu 11
2004
 
 
 
2009
Nền đường đắp thấp trên nền đất
Yếu TVTK chỉ đào bóc hữu cơ 30cm, không xử lý nền.
 
Kiến nghị đào thay đất 60cm, cục bộ có thể thay với chiều dầy 1,0 – 2,5m và cho đắp bù lún 20cm.
Tạo hiệu ứng để
tăng ổn định của
nền đường.
II
Trường hợp nền đường đắp cao (Hđ>3m)
 
 
1
Đường 2 đầu cầu
Bãi Cháy (gói thầu
3a).
 
2003 - 2004
Cao độ đắp được thiết kế cho từng
lớp đắp đề tạo căn c thi công và cho nghiệm thu hàng ngày tại hiện trưng theo số liệu chiều rộng và chiều dầy thiết kế.
Nền đường ổn
định, khối lượng tính toán nghiệm thu hàng ngày đơn giản.
 
2
QL18 đoạn Nội Bài
Bắc Ninh, QL1 Hà Nội – Ninh Bình.
1994
Do thiết kế thiếu kinh nghiệm đã thiết kế đắp qua cao (4 -6m) trên địa hình đồng bằng có nhiều đất yếu:
Cần dùng giải pháp đắp thấp để nền đường đạt độ ổn định cao.
Nền đường ổn
định, xử lý nền
đường ít tốn
kém, khắc phục
được độ lún theo thời gian.
 
3
Đường đầu cầu Phả
Lại QL18
2003
Nền đường đắp cao 7 - 10m, thiết kế giếng cát không gia tải và bệ phản áp
Bổ sung việc gia tải để tăng nhanh độ lún cố kết của nền.
Sau 5 năm, độ
lún nền đường
đã ổn định.
III
Trường hợp cải thiện đất đắp nền đường tại chỗ
1
Mặt đường đê Hữu
Hồng - Hà Nội,
đoạn từ An Dương
đến dốc Vĩnh Tuy,
dài 5,3km công trình chào mừng 990 năm Thăng Long.
2000
Thiết kế cải tạo mặt đường cũ. Chỉ
đào bốc kết cấu mặt đường cũ.
Sau khi đào bỏ, không lu lèn được do nền đường là đất yểu, rác thải.
Cày xi nền và trộn thêm xi măng với tỷ lệ nhất định đề tăng cưng độ nền đường.
 
Thi công đơn
giản, nền mặt
đường ổn định.
Một số thực tiễn triển khai lập hồ sơ dự án, bản vẽ thi công công trình giao thông của Công ty Tư vấn xây dựng công trình - TCI nêu sau đã cho thấy tính hiệu quả và kinh tế của các giải pháp thiết kế thi công gắn với kinh nghiệm của chủ nhiệm công trình trực tiếp quản lý thi công những công trình xây dựng qua nền đất yếu (xem bảng).
Trong thực tế thiết kế và thi công ở nước ta hiện nay có thể gặp các giải pháp xử lý nền đất yếu như: - Thay đất và đắp trả bằng vật liệu tốt hơn, gia cố công trình bằng cọc cừ, cọc ván thép,...
- Tăng nhanh tốc độ cố kết của nền đường bằng bấc thấm, cọc cát kết hợp với làm tầng đệm thoát nước, vải địa kỹ thuật và bệ phản áp kết hợp gia tải.
- Cải thiện vật liệu tại chỗ bằng cách trộn xi măng, trộn đất tốt, vôi; đóng cọc xi măng hoặc cọc đất, bơm vào nền đường các loại chất dẻo hoặc các loại hoá chất,...
Về nguyên tắc, mỗi một phương pháp xử lý đất yếu đều có hiệu quả trong một phạm vi nhất định.
Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng. Do đó, cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của nền đất, điều kiện địa hình, địa chất của khu vực, kết hợp với phương pháp thi công, kinh nghiệm của không chỉ TVTK mà còn cả kinh nghiệm của nhà thầu, chủ đầu tư,... để lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp nhất. Thực tiễn trong quản lý, điều hành thi công công trường, kinh nghiệm của các chỉ huy trưởng thi công sẽ là những bài học thực tiễn sinh động cho các kỹ sư trẻ(những người thiếu kinh nghiệm thực tế ngoài công trường) khi thiết kế xử lý nền đường đắp trên nền đất yếu để đưa ra được biện pháp xử lý hiệu quả và thực tế
Tiêu chuẩn cho phép lún của nền đường ô tô sau khi đưa vào khai thác cũng phải đạt được đưa vào xem xét theo quan điểm kinh tế - kỹ thuật. trong đó phải lựa chọn và so sánh theo các quan điểm hoặc là sử dụng các biện pháp đắt tiền để đẩy nhanh tốc độ cố kết của nền đường hoặc chấp nhận một độ lún nhất định bằng việc sử dụng các biện pháp đơn giản, rẻ tiền rồi sau đó cho thông xe. Công tác bù lún lớp mặt sẽ tiến hành trong quá trình khai thác. Thực tế cho thấy, nếu lún nhiều mà không nứt, không xảy ra trượt trồi thì việc rải bù lớp mặt cũng sẽ không gây ảnh hưởng nhiền đến quá trình khai thác.
Với GS-TS Nguyễn Trường Tiến – Chủ tịch Hội cơ học đất và địa kỹ thuật Việt Nam, 70% công trình bị hỏng có nguyên nhân tư việc thiếu kinh nghiệm trong thực tiễn triển khai thi công và hiểu biết về cơ học đất. Đất yếu là một trong những đối tượng nghiên cu và xử lý rất phức tạp, đòi hỏi công tác khảo sát điều tra nghiên cu phân tích và tính toán rất công phu. Để có được lời giải hiệu quả cho công tác này không thể tách khỏi yếu tố tay nghề thiết kế với bể dầy kinh nghiệm xử lý của Nhà tư vấn cũng như Nha thầu thi công và các Chủ đầu tư.
ĐTH