Tạp chí Popular Mechanics đưa ra 10 dự báo công nghệ năm 2009 thuộc nhiều lĩnh vực, từ picotech tới lưu trữ năng lượng khí nén. Những công nghệ được dự báo không chỉ mang tính định hướng cho năm 2009 mà còn có thể cho tương lai. Dưới đây xin giới thiệu 10 công nghệ được dự báo này.
1. Tia T
Bức xạ Terahertz (hay còn gọi là tia T) xuất hiện ở tần số khoảng 1.000 tỷ hertz - giữa vi sóng và hồng ngoại trên phổ điện từ. Tia T ban đầu được giới nghiên cứu thiên văn học khám phá và sử dụng để quan sát các vì sao và thiên hà. Tuy nhiên, phải đến năm 1995 thì tia T mới được tạo ra trong phòng thí nghiệm.
Không giống như tia X, tia T không ion hoá, do vậy nó không mang nguy cơ gây ung thư. Tia T có thể xuyên qua quần áo, hành lý và vào sâu cơ thể vài mm, nhờ đó mà nó được ứng dụng trong lĩnh vực an ninh và y học, như phát hiện ung thư da và các vấn đề về răng hàm, hay khuẩn than. Thậm chí, tia T còn có thể được sử dụng để phát hiện ung thư hoặc các bệnh di truyền. Tia T có thể thâm nhập vào lớp bao bì, cung cấp chính xác "vân tay" phân tử của chất ở bên trong. Với sự trợ giúp của một hệ thống chụp ảnh tia T, NASA có thể phát hiện ra những khiếm khuyết nhỏ của lớp cách nhiệt trên các tàu Con thoi. Ngoài ra, tia T còn có nhiều ứng dụng thiên văn quan trọng khác.
Cho tới nay, việc tạo ta tia T vẫn còn khó khăn, nhưng các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Harvard (Mỹ) mới đây đã có một sáng chế về tạo nguồn tia T ở nhiệt độ phòng. Các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne (Mỹ) đang phát triển một loại máy phát tia T di động. Các hệ thống nhận dạng thụ động độ phân giải thấp thu nhận được sự phát ra của tia T tự nhiên đã có trên thị trường: Cảnh sát ở Wayne County Sheriff (Detroit, Mỹ) đang thử nghiệm một loại máy quét tia T của Công ty ThruVision (Anh) tại các phiên toà xét xử tội phạm trong khu vực.
2. Công nghệ mô hydrogel
Công nghệ mô nhằm tạo ra hoặc nuôi dưỡng các xương, mạch và các cơ quan thay thế. Nghiên cứu mới hứa hẹn nhất trong lĩnh vực này là các hydrogel - mạng lưới các chuỗi polyme siêu thấm hút mà chức năng của chúng giống như giàn đỡ để hỗ trợ cho sự tăng trưởng của mô mới. Tại Đại học Carnegie Mellon (Mỹ), các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm các hydrogel giúp xương phát triển trở lại; tại các đại học Baylor và Rice (Mỹ), các nhà nghiên cứu cũng đang thử nghiệm các hydrogel để tái tạo ra các mô răng sau khi răng bị hỏng. Những sản phẩm có mặt đầu tiên trên thị trường có thể là BST-CarGel (của Công ty Biosyntech - Canađa), một loại hydrogel hoạt động cùng với các tiểu huyết cầu của chính cơ thể để tạo ra khung cho sự tăng trưởng trở lại của sụn. Dự kiến sẽ có những liệu pháp chữa trị mới với công nghệ mô hydrogel trong năm 2009, sau khi các thử nghiệm lâm sàng cho kết quả tốt.
3. Công nghệ pico (Picotechnology)
Mùa hè năm 2008, các nhà vật lý người Đức đã khởi động kỷ nguyên mới của công nghệ siêu nhỏ, họ đã sử dụng một kính hiển vi điện tử siêu phân giải đặc biệt để đo khoảng cách một vài picomet (1 picomet bằng phần 1.000 tỷ mét).
Những danh giới của khoa học được mở rộng dần từ công nghệ micro (1 micromet bằng 1 phần triệu mét) tới công nghệ nano (1 nanomet bằng 1 phần tỷ mét), nhưng ngày nay chúng ta có thể đang bước vào kỷ nguyên công nghệ pico. Tại Mỹ, hệ thống kính hiển vi TEAM (Transmission Electron Aberration-corrected Microscope) của Bộ Năng lượng được hy vọng sẽ bắt đầu hoạt động chính thức trong năm 2009. Bản nguyên mẫu TEAM này có thể cho phép các nhà khoa học quan sát được các nguyên tử cácbon đơn lẻ.
4. Các UAV bay cao hơn và lâu hơn
Các máy bay không người lái (UAV) có thể bay cao hơn và lâu hơn (HALE - High-Altitude Long-Endurance) được dự báo sẽ được tăng cường nghiên cứu và phát triển trong năm 2009. Dự án Chim kền kền của Cơ quan Dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến (DARPA - Defense Advanced Research Projects Agency) thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã kêu gọi nghiên cứu, chế tạo một loại máy bay không người lái có thể bay bên trên một mục tiêu trong thời gian 5 năm mà không hạ cánh - một phương tiện đa năng và không đắt, có thể thay thế các vệ tinh quỹ đạo thấp. Vào mùa hè năm 2008, một nguyên bản UAV HALE (ảnh) được tạo ra bởi Công ty QinetiQ của Anh, đã bay được trong quãng thời gian kỷ lục là 82 giờ liền. Nhờ được cung cấp năng lượng để hoạt động từ các pin lithium-sulfur được sạc từ các tấm pin mặt trời ở cánh, loại máy bay này có thể bay được cả ban đêm. Ngoài việc giám sát, chiếc UAV HALE còn có thể được sử dụng như các trạm liên lạc viễn thông. Các nhà thầu lớn như Boeing và Lockheed Martin (Mỹ) cũng đang thực hiện chương trình Vulture, giai đoạn đầu sẽ hoàn thành vào năm 2009 và giai đoạn tiếp theo sẽ tạo ra được loại máy bay có thể bay 3 tháng liền.
5. Những đường cáp điện siêu dẫn và siêu an toàn
Cáp siêu dẫn đầu tiên trong một hệ thống đường dây điện thương mại đã được thiết lập ở vùng đảo Long Island (California, Mỹ) năm 2008 và sắp tới sẽ là ở New York City. Dự án Hydra (tên mã vùng của mạng lưới truyền tải điện Manhattan thuộc New York City được lên kế hoạch nâng cấp) sẽ sử dụng những đường cáp siêu an toàn, siêu dẫn bằng nitrogen lỏng được làm lạnh, có thể truyền tải năng lượng gấp 10 lần và điện trở cũng thấp hơn nhiều so với cáp đồng thông thường. Đây là công nghệ cáp siêu dẫn của Công ty American Superconductor. Điều quan trọng đối với Dự án Hydra là cáp siêu dẫn này rất an toàn ngay cả khi dòng điện thay đổi bất thường. Loại cáp này đang có nhiều hứa hẹn trong việc đảm bảo truyền tải hiệu quả nhất nguồn năng lượng cho các ngành công nghiệp, ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt.
6. Lập thể tự động (Autostereoscopy)
Đó là công nghệ 3D không dùng kính được hy vọng sẽ tạo ra các màn hình thế hệ mới. Công nghệ này đã được Hãng Philips (Hà Lan) thử nghiệm từ nhiều năm nay và sắp được tung ra thị trường. Hệ thống WOWvx của Philips dựa trên các thấu kính hình hạt đậu có thể chiếu một hình ảnh hơi khác tới mỗi mắt, tạo ra một ảo giác về độ sâu của hình ảnh. Những sản phẩm đầu tiên của Philips đang được quảng cáo với các màn hình từ 8 tới 132 inch. Tuy nhiên, giá thành của chúng rất cao, khoảng 12.000 USD cho loại màn hình 42 inch. Các sản phẩm cạnh tranh cũng sắp xuất hiện từ Hãng Sharp (Nhật Bản) và các hãng khác.
7. Cùng hợp tác tìm kiếm với SearchTogether
Những người làm việc theo các nhóm dự án thường sao chép lại các kết quả tìm kiếm trên Web của riêng mình. Tìm kiếm cộng tác giúp các nhóm phối hợp được các nỗ lực và tìm kiếm hiệu quả hơn. Một trình duyệt Internet mới của Hãng Microsoft (Mỹ) được gọi là SearchTogether, phiên bản beta đã ra đời tháng 4.2008, có thể tạo ra các phần tìm kiếm nhiều người dùng, phân phối kết quả yêu cầu của từng người đến toàn bộ nhóm. Phần mềm này thật sự hữu ích cho mọi người trong những công việc đòi hỏi sự làm việc nhóm, chẳng hạn như cùng tìm kiếm một chủ đề cho một dự án hay lên kế hoạch cho một chuyến nghỉ dưỡng... Những người thiết kế chương trình đang tiếp tục nghiên cứu các thuật toán tìm kiếm hợp tác. Thế hệ kế tiếp của SearchTogether sẽ bao gồm cả những đặc tính groupization - nhóm hoá (sử dụng những đặc tính được chia sẻ của nhóm để giúp sắp xếp các kết quả) và smart-splitting - phân chia thông minh (gửi những kết quả tìm kiếm tối ưu tới thành viên của nhóm).
8. Công nghệ sản xuất lốp có lực cản lăn thấp
Theo một nghiên cứu của Chính phủ Mỹ năm 2008, khi giảm 10% lực cản lăn của lốp xe thì có thể tiết kiệm được lượng nhiên liệu từ 1 đến 2%. Năm 2007, Quốc hội Mỹ đã thông qua một đạo luật quy định rằng, đến năm 2009 các nhà sản xuất lốp phải tạo ra được loại lốp giúp tiết kiệm nhiên liệu. Yêu cầu về hiệu quả năng lượng đã khiến các kỹ sư tại các hãng lốp danh tiếng như Michelin và Bridgestone phải tập trung vào sản xuất loại lốp xanh này. Các hãng sản xuất xe hơi cũng đang quan tâm đến công nghệ này, trước hết, họ tập trung vào các mẫu xe hybrid (xe lai) được trang bị loại lốp này theo tiêu chuẩn. Hiện Hãng Michelin đã tạo ra được loại lốp mang tên Latitude Tour có lực cản lăn thấp, giảm được tới 33% so với loại lốp thông thường.
9. Tận dụng năng lượng
Chỉ 1/3 năng lượng mà chiếc xe hơi của bạn sử dụng để đẩy xe đi, 2/3 còn lại là toả nhiệt (không được sử dụng hay nói cách khác là bỏ phí). Các vật liệu nhiệt điện (tạo ra dòng điện khi được làm nóng hoặc lạnh), có thể đem lại một giải pháp phục hồi năng lượng bị lãng phí. Theo một báo cáo của Bộ Năng lượng Mỹ thì các vật liệu nhiệt điện đem lại hiệu quả cao hơn 300% so với các vật liệu thế hệ đầu. Hãng General Motors đang tập trung vào một phiên bản có tên Chevy Suburban cho năm 2009 với thiết bị nhiệt điện được đặt xung quanh ống xả và giúp nâng cao khả năng tiết kiệm nhiên liệu (khoảng 5%). Tận dụng năng lượng nhiệt điện cũng là cách để tích hợp các hệ thống tự làm mát với các microchip, giúp loại bỏ được các thiết bị làm mát kồng kềnh mà bản thân chúng cũng tiêu thụ năng lượng.
10. Lưu trữ năng lượng khí nén
Để làm cho năng lượng gió trở nên có ích khi gió không còn nổi lên, cần phải có công nghệ lưu trữ năng lượng có ích. Nhưng những loại pin lớn lại tỏ ra không thiết thực. Một giải pháp được lựa chọn là sử dụng năng lượng gió để nén khí nhằm lưu trữ trong các thùng chứa hoặc hầm chứa dưới lòng đất, sau đó sử dụng khí để chạy máy phát điện. Đó là mục tiêu của Công viên năng lượng lưu trữ Iowa (Iowa Stored Energy Park) ở Dallas Center (Iowa, Mỹ), nơi đang thử nghiệm công nghệ này và hy vọng sẽ kết thúc vào năm 2009. Công nghệ này cũng sẽ được áp dụng trong kế hoạch xây dựng trang trại gió lớn nhất thế giới, một dự án tạo ra 3.000 megawatt điện cho vùng Briscoe County ở bang Texas.
Tạp chí Popular Mechanics