Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (Ảnh: Tư liệu)
Định hướng phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Thực hiện Quyết định số 355/QĐ-TTg, ngày 25/2/2013, của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các quy hoạch phát triển ngành giao thông vận tải (GTVT), trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước và cả xã hội đã dành sự quan tâm lớn cho đầu tư phát triển GTVT; trong đó, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông (KCHTGT) đã có bước phát triển mạnh mẽ. Chất lượng vận tải ngày càng được nâng cao, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền. Một số công trình giao thông hiện đại, như đường bộ cao tốc, cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế,... đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, góp phần tạo diện mạo mới cho đất nước.
Tuy nhiên, thực tế hệ thống KCHTGT vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, hiện đại và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1/2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã nhận định: “Kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Một trong những định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, được Chiến lược xác định là: “Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế”(1).
Để triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16/1/2012, Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết đặt ra mục tiêu: “Tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư giải quyết cơ bản những tắc nghẽn, quá tải, bức xúc và từng bước hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại”. Trong đó, phát triển kết cấu hạ tầng là một trong bốn lĩnh vực trọng tâm, với yêu cầu: “Bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực vận tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn”(2).
Nhằm tiếp tục tạo nguồn lực để đầu tư, phát triển KCHTGT, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 1/2016) đã khẳng định chủ trương tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, trong đó quan tâm: “Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại... bảo đảm hiệu quả tổng hợp và tính hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông...”(3). Để có bước đột phá trong xây dựng KCHTGT, Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình lớn, quan trọng thiết yếu, nhất là tại các khu vực có tiềm năng phát triển và giải quyết các ách tắc, quá tải. Bảo đảm kết nối thông suốt giữa các trung tâm kinh tế lớn, các đầu mối giao thông cửa ngõ các tuyến có nhu cầu vận tải lớn. Quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông tại các vùng khó khăn” (4).
Các nghị quyết, chiến lược của Đảng nêu trên vừa là mục tiêu, vừa là định hướng cho ngành GTVT đối với việc phát triển KCHTGT.
Thực trạng đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông
Cụ thể hóa các quan điểm, định hướng chỉ đạo của Đảng về phát triển KCHTGT đồng bộ, hiện đại, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 355/QĐ-TTg và điều chỉnh quy hoạch phát triển GTVT của năm chuyên ngành: đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng không, hàng hải. Trong đó, quy hoạch các công trình giao thông hiện đại, kết nối đồng bộ gồm: 1- Mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia để kết nối với các trung tâm kinh tế trọng điểm Bắc - Nam, các cửa khẩu, các cảng hàng không, các cảng biển quốc tế, các tuyến đường vành đai đô thị có nhu cầu vận tải lớn, với tổng chiều dài 6.411km; 2- Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; 3- Các cảng biển cửa ngõ quốc tế tại khu vực Bắc - Trung - Nam (cảng Lạch Huyện, cảng Vân Phong và cảng Cái Mép - Thị Vải); 4- Quy hoạch mạng đường bay theo mô hình nan quạt với tần suất khai thác cao, với 2 đầu cuối hiện đại tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; 5- Quản lý giao thông đô thị khoa học, sử dụng công nghệ hiện đại thông qua hệ thống camera, giao thông thông minh (ITS).
Bên cạnh việc đầu tư một số công trình bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, sau bảy năm triển khai thực hiện các nghị quyết, chiến lược, quy hoạch, hệ thống KCHTGT đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều công trình giao thông lớn, hiện đại đã và đang từng bước được đầu tư xây dựng, góp phần tạo diện mạo mới cho đất nước, tạo lập được sự kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế.
Về đường bộ, đã đưa vào khai thác 1.041km đường cao tốc, đang đầu tư xây dựng hơn 160km, tiếp tục triển khai các thủ tục để đầu tư xây dựng thêm 654km đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông (theo Nghị quyết số 52/2017/QH14, ngày 22/11/2017, của Quốc hội); 40km đường cao tốc đoạn thành phố Lạng Sơn - cửa khẩu Hữu Nghị (Đồng Đăng); 92km đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái. Về hàng không, đã có những bước phát triển đột phá về cả quy mô và chất lượng dịch vụ, đáp ứng kịp thời sự bùng nổ của nhu cầu vận tải hàng không trong giai đoạn vừa qua với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16% - 18%/năm, đã nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới các cảng hàng không Phú Quốc, Vân Đồn, nâng tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu lượt hành khách/năm, tăng 2,5 lần so với năm 2011. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đã được Quốc hội thông qua.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc kiểm tra tiến độ
Dự án đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận tại khu vực cầu cạn Phú Nhuận,
huyện Cay Lậy, tỉnh Tiền Giang (Ảnh: Tư liệu)
Hoàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải, Lạch Huyện có khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 tấn (DWT) đi thẳng tới bờ tây nước Mỹ, Ca-na-đa và châu Âu; các cảng hành khách tại Phú Quốc, Hạ Long có khả năng tiếp nhận tàu chở khách lớn nhất thế giới; thực hiện nâng cấp, cải tạo các cảng đầu mối khu vực Nghi Sơn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Cần Thơ, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn (năm 2011) lên khoảng 580 triệu tấn mỗi năm. Các tuyến đường thủy chính đã được đầu tư nâng cấp, trong đó: Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 1.082km đường thủy, vùng đồng bằng Bắc Bộ có 462km đường thủy được đầu tư cải tạo, nâng cao năng lực vận tải.
Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai 5 dự án đường sắt đô thị; đã triển khai các dự án cải tạo cầu yếu, thông tin tín hiệu, gia cố sửa chữa các hầm đường sắt và các hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu khác, qua đó nâng cao mức độ an toàn, rút ngắn thời gian chạy tàu trên trục Bắc - Nam; đang tập trung triển khai các dự án đường sắt quan trọng, cấp bách nhằm nâng cao khả năng khai thác, an toàn chạy tàu trên tuyến đường sắt Bắc - Nam và hoàn thiện nghiên cứu tiền khả thi đường sắt Bắc - Nam tốc độ cao để trình Quốc hội chấp thuận chủ trương trong năm 2020.
Giao thông đô thị từng bước được cải tạo, nâng cấp và mở rộng, đặc biệt tại các đô thị lớn, góp phần hạn chế tình trạng ùn tắc hành khách, hàng hóa. Tập trung đầu tư các trục giao thông hướng tâm, các đường vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên các đường vành đai Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các công trình trọng điểm trong từng khu vực (các cầu lớn: Nhật Tân, Vĩnh Thịnh, Cao Lãnh, Vàm Cống, Năm Căn, Cổ Chiên, Mỹ Lợi, Cái Tắt, An Hữu, Rạch Sỏi...); phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai các dự án đường sắt đô thị. Chất lượng phục vụ, dịch vụ vận tải cũng không ngừng được đổi mới, nâng cao, bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại của nhân dân; thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh; góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Như vậy, thực hiện các nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã triển khai kịp thời bằng những dự án nên hệ thống KCHTGT của đất nước đã có những chuyển biến hết sức rõ nét, năng lực hệ thống KCHTGT được nâng lên đáng kể. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, trong kỳ đánh giá 2017 - 2018, năng lực và chất lượng kết cấu hạ tầng của Việt Nam liên tục tăng bậc, từ thứ 95/144 (năm 2011) lên thứ 79/137 (năm 2016), trong đó, chỉ số về chất lượng kết cấu hạ tầng đường bộ đứng thứ 92 (tăng 28 bậc), cảng biển đứng thứ 82 (tăng 31 bậc). Chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) của Việt Nam năm 2018 xếp hạng 39/160 nước, tăng 25 bậc so với 2016 (năm 2011, Việt Nam xếp hạng 53/155 nước). Trong khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam xếp hạng 3, sau Singapore (xếp hạng 7) và Thái Lan (xếp hạng 32). Tất cả các chỉ số đánh giá LPI năm 2018 đều tăng vượt bậc, trong đó, mức tăng cao nhất là năng lực chất lượng dịch vụ (xếp hạng 33, tăng 29 bậc) và khả năng theo dõi, truy xuất hàng hóa (xếp hạng 34, tăng 41 bậc).
Dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển KCHTGT theo hướng đồng bộ, hiện đại, nhưng hệ thống KCHTGT của nước ta vẫn còn là điểm nghẽn đối với nhu cầu phát triển để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Hệ thống đường bộ cao tốc mới bước đầu hình thành, chưa đạt mục tiêu đến năm 2020 đưa vào sử dụng khoảng 2.000km đường cao tốc; hệ thống đường sắt đã lạc hậu, chưa đầu tư được đường sắt tốc độ cao, hệ thống đường sắt đô thị mới đầu tư xây dựng những tuyến đầu tiên; hệ thống cảng biển chưa khai thác hết công suất thiết kế; một số cảng hàng không đã xảy ra quá tải... Vì thế, chưa hình thành được hệ thống KCHTGT đồng bộ, hiện đại, nhất là so sánh với các tiêu chí của quốc tế (mạng đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao, cảng hàng không, cảng biển đầu mối).
Một trong những nguyên nhân chính là khó khăn về nguồn lực, khiến cho công tác đầu tư phát triển KCHTGT triển khai chậm so với yêu cầu, hệ thống KCHTGT hiện hữu cũng chưa có điều kiện duy tu, bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời, làm hạn chế năng lực khai thác. Theo kế hoạch vốn ngân sách nhà nước được phân bổ trong giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Giao thông vận tải được cân đối, bố trí mới chỉ đáp ứng trên 30% nhu cầu đầu tư phát triển, cũng như công tác bảo trì KCHTGT hiện có, trong khi việc kêu gọi đầu tư tư nhân còn khó khăn do đầu tư KCHTGT nhiều rủi ro, hệ thống văn bản pháp lý còn chưa đồng bộ. Đây là trở ngại rất lớn trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KCHTGT đồng bộ, hiện đại, “đi trước một bước” tạo tiền đề phát triển đất nước tới năm 2030.
Cảng Cái Mép - Thị Vải (Ảnh: Tư liệu)
Để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông “đi trước một bước” theo hướng đồng bộ, hiện đại
Khoa học - công nghệ thế giới đang có những chuyển biến tích cực, nhất là công nghệ ứng dụng, công nghệ năng lượng, phần mềm ứng dụng... nên tác động không nhỏ đến phương thức quản lý, xu hướng đầu tư KCHTGT thế giới nói chung và nước ta nói riêng. Việt Nam tham gia nhiều hiệp định song phương và đa phương về thương mại, hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ tác động lớn đến định hướng phát triển KCHTGT. Căn cứ các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, trên cơ sở nguồn vốn đầu tư công trung hạn đã được bố trí, ngành GTVT xác định trong giai đoạn đến năm 2030 cần định hướng đầu tư phát triển KCHTGT theo hướng đồng bộ, hiện đại để kiến tạo động lực phát triển quốc gia với mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền kinh tế năng động, phát triển nhanh và bền vững; đẩy nhanh việc thực hiện các khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Ngành GTVT cần đáp ứng nhu cầu vận tải với tổng sản lượng vận tải khoảng 2.500 tỷ tấn.km (tương đương 4,3 tỷ tấn hàng hóa); 667 tỷ hành khách.km (tương đương 14 tỷ lượt khách); tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm về sản lượng vận tải hàng hóa giai đoạn 2021 - 2030 là 6,7%, hành khách là 8,2%. Nâng cao chất lượng vận tải, giá thành hợp lý; kiềm chế, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông, hạn chế ô nhiễm môi trường; tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý, khai thác.
Về phát triển kết cấu hạ tầng:
Một là, phấn đấu đến năm 2030, trên 80% các tỉnh/thành phố trong cả nước đều có đường bộ cao tốc đi qua hoặc kết nối tới trung tâm hành chính và có khoảng 3.500km - 4.000km đường bộ cao tốc, trong đó ưu tiên đầu tư đưa vào khai thác thông tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, các tuyến đường bộ cao tốc trên các hành lang vận tải chủ yếu, các tuyến đường bộ cao tốc cửa ngõ kết nối với Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn, các tuyến cao tốc vành đai đô thị; hệ thống đường bộ Việt Nam đồng bộ về tiêu chuẩn kỹ thuật, kết nối thuận lợi với hệ thống đường bộ ASEAN, Tiểu vùng Mê Công mở rộng và xuyên Á.
Hai là, triển khai xây dựng một số đoạn trên tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trong đó, ưu tiên đoạn Hà Nội - Vinh, Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang; nhanh chóng phát triển mạng đường sắt đô thị làm nòng cốt phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị lớn: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, phát triển đồng bộ KCHTGT với phương tiện vận tải, thiết bị quản lý, điều hành hiện đại và gắn kết với các trung tâm phân phối hàng hóa, cảng biển lớn, cảng cạn ICD.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu đầu tư các bến còn lại của cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, huy động vốn đầu tư cảng quốc tế Vân Phong, tiếp tục nâng cao hiệu quả khai thác khu bến cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải; tiếp tục đầu tư luồng Thị Vải để bảo đảm cho tàu 200.000T hành thủy 24/24h; dành quỹ đất thích hợp phía sau cảng để xây dựng trung tâm phân phối, bốc xếp hàng hóa, dịch vụ hậu cảng, kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia, từng bước tạo thành mạng lưới KCHTGT lô-gi-stíc hiện đại, hiệu quả ngang tầm các nước trong khu vực.
Bốn là, hoàn thiện mạng lưới cảng hàng không trong cả nước với quy mô hiện đại; hoàn thành mở rộng các cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất theo quy hoạch; đầu tư cảng hàng không quốc tế Long Thành (giai đoạn 1) có vai trò và quy mô ngang tầm với các cảng hàng không quốc tế lớn trong khu vực. Đầu tư hệ thống quản lý hoạt động bay hiện đại, bảo đảm tầm phủ của các trang thiết bị liên lạc, dẫn đường và giám sát theo yêu cầu nhiệm vụ trong toàn bộ vùng FIR của Việt Nam.
Năm là, tiếp tục đưa vào cấp kỹ thuật, bảo đảm chạy tàu 24/24h các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu. Tiếp tục huy động vốn đầu tư các tuyến đường thủy có nhu cầu vận tải lớn; dự án phát triển các hành lang đường thủy và lô-gi-stíc khu vực phía Nam. Cơ giới hóa bốc xếp các cảng, bến thủy nội địa hiện đại, có hiệu quả.
Sáu là, phát triển giao thông đô thị theo quan điểm hướng tới văn minh, hiện đại. Từng bước xây dựng các tuyến vận tải hành khách khối lượng lớn tại các đô thị loại I. Tiếp tục đầu tư phát triển mạng lưới đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để bảo đảm tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 40% - 45%.
Ngành GTVT xác định nhiệm vụ phát triển trong thời gian tới là hết sức nặng nề. Để bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra, tiếp tục đẩy mạnh phát triển KCHTGT, góp phần thực hiện ba đột phá chiến lược, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế, ngành GTVT tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng mức đầu tư cho KCHTGT bằng ngân sách nhà nước, đặc biệt là ưu tiên đầu tư cho những công trình giao thông trọng điểm. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển KCHTGT. Đẩy mạnh vận động các nhà tài trợ tiếp tục cung cấp vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để phát triển KCHTGT, nhất là các công trình lớn, có sức lan tỏa, tạo ra đột phá lớn.
Thứ hai, rà soát, đơn giản hóa và tinh giảm, rút gọn các thủ tục đầu tư xây dựng... để sớm triển khai các dự án đầu tư phát triển KCHTGT sau khi được Quốc hội, Chính phủ thông qua. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, giá, phí, lệ phí, nhượng quyền để tăng tính thương mại của các dự án giao thông và trách nhiệm đóng góp của người sử dụng, bảo đảm lợi ích thỏa đáng của nhà đầu tư. Có cơ chế khai thác hiệu quả nguồn lực từ tài sản công để tạo vốn đầu tư phát triển KCHTGT.
Thứ ba, nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế, chính sách về thuế, phí, hỗ trợ tài chính theo hướng tạo thuận lợi cho phát triển vận tải hành khách công cộng, vận tải đa phương thức, đặc biệt là các quy định liên quan đến thu và quản lý, sử dụng phí sử dụng đường bộ, phí trông giữ xe, trợ giá xe buýt.
Thứ tư, sớm hoàn thiện hệ thống các quy hoạch ngành quốc gia, các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành để làm cơ sở quản lý, chỉ đạo công tác đầu tư phát triển, bảo đảm hiệu quả đầu tư, phát triển cân đối, hài hòa tổng thể giữa các lĩnh vực. Theo đó, cần nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa nâng cao chất lượng và có tầm nhìn dài hạn đối với quy hoạch hệ thống KCHTGT, bảo đảm phù hợp với các quy hoạch ngành quốc gia theo Luật Quy hoạch mới được ban hành.
Thứ năm, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai và thực thi nghiêm các chính sách, pháp luật về đất dành cho phát triển KCHTGT. Đồng thời, đổi mới chính sách thuế sử dụng đất và các quy định giá hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng, bảo đảm sự công bằng, linh hoạt theo giá trị thị trường.
Với sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, ngành GTVT sẽ nỗ lực, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ phát triển hệ thống KCHTGT đồng bộ, hiện đại, tạo lập được cơ cấu vận tải hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và chuyên nghiệp hơn so với hiện nay, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong thời gian tới./.
----------------------
(1) Xem: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2011-2020-1527
(2) Xem: Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/nghi-quyet-so-13-nqtw-ngay-16012012-hoi-nghi-lan-thu-4-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-xay-dung-he-thong-ket-575
(3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 294.
NGUYỄN VĂN THỂ
Ủy viên Trung ương Đảng,
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải