Hiến pháp 2013

Thứ hai, 02/02/2015 00:58
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Chương I.

CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

          Điều 1.

          Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.

          Điều 2. 

          1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

          2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

          3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

          Điều 3.

          Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

          Điều 4.

          1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

          2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

          3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

          Điều 5.

          1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

          2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

          3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.

          4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

          Điều 6.

          Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.

          Điều 7.

          1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

          2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân.

          Điều 8.

          1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

          2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.

          Điều 9.

          1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

          Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

          2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

          3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.

          Điều 10.

          Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Điều 11.

          1. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

          2. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị.

          Điều 12. 

          Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

          Điều 13.

          1. Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

          2. Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

          3. Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài Tiến quân ca.

          4. Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945.

          5. Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.

Chương II.

QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ

CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

          Điều 14.

          1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

          2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

          Điều 15.

          1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

          2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.

          3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.

          4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

          Điều 16.

          1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

          2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

          Điều 17.

          1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

          2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.

          3. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ.

          Điều 18.

          1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

          2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

          Điều 19.

          Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

          Điều 20.

          1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

          2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

          3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

          Điều 21.

          1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

          Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

          2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.

          Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.

          Điều 22.

          1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.

          2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.

          3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.

          Điều 23.

          Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

          Điều 24.

          1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

          2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 

          3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

          Điều 25.

          Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

          Điều 26.

          1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

          2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

          3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

          Điều 27.

          Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.

          Điều 28.

          1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

          2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

          Điều 29. 

          Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

          Điều 30.

          1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

          2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.

          3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

          Điều 31.

          1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

          2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.

          3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

          4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

          5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

          Điều 32.

          1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.

          2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

          3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.

          Điều 33.

          Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

          Điều 34.

          Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.

          Điều 35.

          1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.

          2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.  

          3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.

          Điều 36.

          1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

          2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.

          Điều 37.

          1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.

          2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.

          3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Điều 38. 

          1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.

          2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng.

          Điều 39.

          Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập.

          Điều 40. 

          Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.

          Điều 41.

          Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.

          Điều 42.

Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.

          Điều 43. 

          Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.

          Điều 44.

          Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc.

Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

          Điều 45.

          1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

          2. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân. 

          Điều 46.

          Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

          Điều 47.

          Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định.

          Điều 48.

          Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam.

          Điều 49.

          Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú.

Chương III.

KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG

          Điều 50.

          Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

          Điều 51.

          1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

          2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.

          3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.

          Điều 52.

          Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.

          Điều 53. 

          Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. 

          Điều 54. 

          1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

          2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

          3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

          4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. 

          Điều 55.

          1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.

          2. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định.

          3. Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.

          Điều 56. 

          Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước.

          Điều 57.

          1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động.

          2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.

          Điều 58.

          1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

          2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

          Điều 59.

          1. Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước.

          2. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác.

          3. Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở.

          Điều 60.

          1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

          2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.

          Điều 61.

          1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

          2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

          3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề.

          Điều 62.

          1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

          2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

          3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ.

          Điều 63.

          1. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

          2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. 

          3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.

Chương IV

BẢO VỆ TỔ QUỐC

          Điều 64.

          Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.

          Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

          Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.

          Điều 65.

          Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

          Điều 66. 

          Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. 

          Điều 67.

          Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

          Điều 68. 

          Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.

Chương V

QUỐC HỘI

          Điều 69.

          Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

          Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

          Điều 70. 

          Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

          2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

          3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

          4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

          5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

          6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

          7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

          Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;

          8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

          9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

          10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

          11. Quyết định đại xá;

          12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

          13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

          14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

          15. Quyết định trưng cầu ý dân.

          Điều 71. 

          1. Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là năm năm.

          2. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong.

          3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh.

          Điều 72.

          Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.

          Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Quốc hội.

          Điều 73.

          1. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.

          2. Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên.

          3. Số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.

          4. Ủy ban thường vụ Quốc hội của mỗi khóa Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          Điều 74. 

          Ủy ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội;

          2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;

          3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

          4. Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

          5. Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội;

          6. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước;

          7. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân;

          8. Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

          9. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

          10. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

          11. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;

          12. Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

          13. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.

          Điều 75.

          1. Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

          2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

          3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.

          4. Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như Ủy ban của Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 76.

          Điều 76.

          1. Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

          2. Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban.

          3. Việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội do Quốc hội quyết định.

          Điều 77.

          1. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.

          2. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

          Điều 78.

          Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định.

          Điều 79.

          1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.

          2. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.

          3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.

          Điều 80.

          1. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước.

          2. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.

          3. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định.

          Điều 81.

          Không được bắt, giam giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

          Điều 82.

          1. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.

          2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.

          3. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.

          Điều 83.

          1. Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.

          2. Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội.

          3. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới được triệu tập chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch Quốc hội khóa trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch Quốc hội.

          Điều 84.

          1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          2. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          Điều 85.

          1. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; trường hợp làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

          Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành.

          2. Luật, pháp lệnh phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại pháp lệnh.

Chương VI

CHỦ TỊCH NƯỚC

          Điều 86.

          Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

          Điều 87.

          Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.

          Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

          Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước.

          Điều 88.

          Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

          2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;

          3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; 

          4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;

          5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

          6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.

          Điều 89.

          1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. 

          Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.

          2. Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

          Điều 90.

          Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ.

          Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.

          Điều 91.

          Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

          Điều 92.

          Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.

          Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy nhiệm thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ.

          Điều 93.

          Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước.

          Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới.

 

 

 

Chương VII

CHÍNH PHỦ

          Điều 94.

          Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

          Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

          Điều 95.

          1. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

          Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.

          Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.

          2. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

          3. Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.

          4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.

          Điều 96.

          Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

          2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;  

          3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

          4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 

          5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;

          6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

          7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

          8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

          Điều 97.

          Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ.

          Điều 98.

          Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.

          Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật;

          2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia;

          3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

          4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;

          5. Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

          6. Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

          Điều 99.

          1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

          2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.

          Điều 100.

          Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật.

          Điều 101.

Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.

Chương VIII

TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

          Điều 102.

          1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

          2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

          3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

          Điều 103.

          1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

          2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

          3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.

          4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

          5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.

          6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.

          7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.

          Điều 104.

          1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

          2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định.

          3. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

          Điều 105.

          1. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định.

          2. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của Chánh án các Tòa án khác do luật định.

          3. Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định.

          Điều 106.

          Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

          Điều 107.

          1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

          2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.

          3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

          Điều 108.

          1. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác và của Kiểm sát viên do luật định.

          2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định. 

          Điều 109.

          1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

          2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.

Chương IX

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

          Điều 110.

          1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

          Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

          Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;

          Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.

          Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.

          2. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định.

          Điều 111.

          1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

          2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.

          Điều 112.

          1. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

          2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

          3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.

          Điều 113.

          1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

          2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

          Điều 114.

          1. Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

          2. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

          Điều 115.

          1. Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

          2. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.

          Điều 116.

          1. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

          2. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

Chương X

HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

          Điều 117.

          1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

          2. Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.

          3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định.

          Điều 118.

          1. Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

          2. Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước do luật định.

          Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm toán nhà nước do luật định.

Chương XI

HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

          Điều 119.

          1. Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.

          Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

          Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.

          2. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

          Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.

          Điều 120.

          1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

          2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp.

          4. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.

          5. Thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp do Quốc hội quyết định.

          Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013.

                                                                                                             CHỦ TỊCH QUỐC HỘI                                                                                 

                                                                           

 

                                                                                  Nguyễn Sinh Hùng
Phần II:
NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP

NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM NĂM 2013

1/  Hình thức

Hiến pháp 2013 bao gồm 11 chương và 120 Điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp 1992). Hiến pháp 2013 chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 Điều.

          2.  Lời nói đầu:  được chỉnh sửa theo hướng khái quát, cô đọng, súc tích và ngắn gọn chỉ bằng 1/3 so với lời nói đầu của Hiến pháp 1992. Cụ thể:

          Bỏ cụm “và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng - dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.” và thay vào đó cụm “Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.”

          - Bỏ nguyên đoạn “Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.”.

          Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý

          3. Sửa đổi, bổ sung Điều 2

          Tiếp tục khẳng định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước Việt Nam do dân làm chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân

          Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. “Kiểm soát” là từ ngữ mới được xuất hiện trong bản hiến pháp lần này

          4. Sửa đổi, bổ sung Điều 3

          Theo đó, nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân – đây là điểm mới tiến bộ.

          Hiến pháp 1992

          “Điều 3. Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi íchcủa Tổ quốc và của nhân dân”

          Hiến pháp 2013

          “Điều 3. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

          5. Sửa đổi, bổ sung Điều 4

          Ngoài quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.“ còn bổ sung quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”.

          Đồng thời bổ sung quy định “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”.

          Hiến pháp 1992:

          Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

          Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

          Hiến pháp 2013

          “1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

          2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

          3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

          6. Quy định về ngôn ngữ quốc gia

          Hiến pháp 2013 quy định ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt – điều mà Hiến pháp 1992 không đề cập và tiếp tục khẳng định “các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.”.

          Đồng thời quy định “Nhà nước tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

          Hiến pháp 1992:

          “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

          Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

          Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.

          Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.”

          Hiến pháp 2013:

          “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

          2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

          3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.

          4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”

          7. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước

          Điều 6 đã được quy định rút gọn: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằngdân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.”

          Hiến pháp 1992:

          Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

          Hiến pháp 2013:

          “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”

          8. Bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân

          Đã được sửa đổi, chỉnh sửa câu chữ cho rõ nghĩa hơn, theo đó: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.”.

          Hiến pháp 1992:

          “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

          Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.”

          Hiến pháp 2013:

          “1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

           2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân.”

          9. Điều 8 và Điều 12 Hiến pháp 1992 được chỉnh gọn lại thành Điều 8

          Theo đó, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọngNhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.

          10. Sửa đổi bổ sung Điều 9

          Theo đó bổ sung quy định: “Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.”

          Hiến pháp 1992:

          “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.

          Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”

          Hiến pháp 2013:

          “1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

          Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

          2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

          3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”

          11. Công đoàn Việt Nam

          Công đoàn Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động (Hiến pháp 1992 chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác).

          Đồng thời, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Hiến pháp 1992:

          “Điều 10. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

          Hiến pháp 2013:

          “Điều 10. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

          12. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm

          Theo đó, mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị (Hiến pháp 1992 là âm mưu và hành động chống lại độc lập…).

          Hiến pháp 1992:

          “Điều 13. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

          Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật.”

          Hiến pháp 2013:

          “Điều 11:

           1. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

           2. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị.”

          13. Nhất quán đường lối đối ngoại

          Theo đó, điều này được chỉnh sửa câu chữ theo hướng rõ ràng và nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình … của Việt Nam.

          Hiến pháp  1992:

          “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”

          Hiến pháp 2013

          “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”

          14. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, ngày quốc khánh, thủ đô

          Ghép và giữ nguyên các điều 141, 142, 143, 144 sửa đổi Điều 145 của Hiến pháp 1992 thành Điều 13 Hiến pháp 2013, như sau:

          “Điều 13:

          1. Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

          2. Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

          3. Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”.

          4. Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945.

          5. Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.”

          15. Hạn chế quyền con người, quyền công dân

          Theo Hiến pháp 2013, Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, cụ thể như sau:

          Hiến pháp 2013

          “Điều 14:

          1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

          2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”

          16. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân

          Hiến pháp 2013 khẳng định rõ: Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cụ thể như sau:

          “Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định

          1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

          2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.

          3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.

          4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”

          17. Quyền bình đẳng trước pháp luật

          Ngoài quy định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” Hiến pháp 2013 còn bổ sung thêm quy định “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.”, cụ thể:

          “Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định

          1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

          2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.”

          18. Công dân Việt Nam

          Hiến pháp 2013 quy định rõ ràng và chi tiết hơn Hiến pháp 1992 về vấn đề “Công dân Việt Nam”, theo đó:

          Điều 17 Hiến pháp 2013 quy định:

          “1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

          2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.

          3. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ.”

          19. Quan hệ giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với nhà nước Việt Nam

          Quy định mật thiết hơn mối quan hệ giữa người Việt nam định cư ở nước ngoài đối với nhà nước Việt Nam. Cụ thể, Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huybản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

          Điều 18 Hiến pháp 2013 quy định:

          “1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

          2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”

          20. Quyền sống

          Đây là quy định mới hoàn toàn so với Hiến pháp 1992, theo đó: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.”.

          Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:

          “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”

          21. Quyền hiến xác

          Ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi người. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

          “Điều 20 Hiến pháp 2013

          1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

          2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

          3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.”

          22. Đời sống riêng tư

          Hiến pháp 2013 quy định chi tiết rõ ràng hơn về vấn đề này, theo đó, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

          Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định

          “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

          Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

          2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.

          Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”

          23. Bình đẳng giới

          Vấn đề này được rút ngắn và quy định xúc tích hơn, cụ thể như sau:

          Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định:

          “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

          2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

          3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”

          24. Công dân tham gia quản lý nhà nước

          Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

          Điều 28 Hiến pháp 2013 quy định:

          “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

          2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”

          25. Độ tuổi biểu quyết khi trưng cầu ý dân

          Quy định mới, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

          Điều 29 Hiến pháp 2013 quy định: 

          “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.”

          26. Sửa đổi, bổ sung điều 72

          Theo đó bổ sung thêm quy định, Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

          Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định:

          “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

          2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.

          3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

          4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

          5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.”

          27. Tự do kinh doanh

          Theo Hiến pháp 2013, thì mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

          Điều 33 Hiến pháp 2013

          “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”

          28. Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội

          Đây là quy định mới, cụ thể như sau:

          “Điều 34.

          Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.”

          29. Lao động

          Điều 55, 56 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung thành Điều 35 Hiến pháp 2013. Theo đó, bỏ quy định “Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.”. Chi tiết quy định như sau:

          “Điều 35.

          1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.

          2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.  

          3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.”

          30. Bỏ quy định: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.”.

          31. Bổ sung quy định: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”.

          32. Hiến pháp 2013 quy định ngắn gọn “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” và bỏ những quy định trước đó của Hiến pháp 1992:

- Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.

- Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.

- Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng.

- Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.

- Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp.

          33. Quy định mới: Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41).

          34. Quy định mới: Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42).

          35. Quy định mới: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43).

          36. Đất đai

          Sửa đổi, bổ sung điều 18 Hiến pháp 1992 rõ ràng và phù hợp với thực tiễn hơn, cụ thể như sau:

          Điều 54 quy định:

          “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

          2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

          3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

          4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.”

          37. Ngân sách Nhà nước

          Đây là quy định mới, nội dung quy định như sau:

          “Điều 55

          1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.

          2. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định.

          3. Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia”   

          38. Sửa đổi, bổ sung Điều 27 về quản lý nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm

          Bổ sung về “phòng, chống tham nhũng”, như sau: Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước (Điều 56).

          39. Điều 30, 31, 32, 33, 34 được sửa đổi, bổ sung thành Điều 60 Hiến pháp 2013, quy định như sau:

          1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

          2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân. (Điều 60)   

40. Lực lượng vũ trang nhân dân trung thành với Đảng và Nhà nước

          Ngoài quy định Lực lượng vũ trang nhân dân trung thành với Tổ quốc và Nhân dân Hiến pháp 2013 còn bổ sung quy định phải trung thành với Đảng và Nhà nước.

          “Điều 65.

          Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nhiệm vụ quốc tế.

          41. Nhiệm kỳ quốc hội

          Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong (Hiến pháp 1992 là Hai tháng).

          Bổ sung quy định khi kéo dài nhiệm kỳ quốc hội thì không được quá 12 tháng (trừ trường hợp có chiến tranh).

          42. Ký chứng thực Hiến pháp

          Ngoài quy định Chủ tịch quốc hội chứng thực Luật, Nghị quyết của Quốc hội, nay bổ sung thêm chứng thực Hiến pháp.

          43. Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra, một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định (Quy định mới).

          44. Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc phổ biến vận và động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và Pháp luật

          Hiến pháp 1992, chỉ quy định: Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Còn Hiến pháp 2013 thì: Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.

          Điều 79 Hiến pháp 2013:

          1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.

          2. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.

          3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.

          45. Sửa đổi, bổ sung điều 100

          Ngoài quy định Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, Hiến pháp 2013 ghi nhận Đại biểu có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.

          Điều 82 Hiến pháp 2013:      

          1. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.

          2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.

          3. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.

          46. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước

          Theo đó, sửa đổi bổ sung điều 103 Hiến pháp 1992 thành quy định mới như sau:

          Điều 88 Hiến pháp 2013:

          Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

          1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyếttán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

          2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;

          3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định đại xá;

          4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;

          5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm,cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấpđại sứ; quyết địnhđàm phán, kýđiều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần III: HỎI ĐÁP VỀ HIẾN PHÁP

Câu hỏi 1:

Hiến pháp là gì?

Trả lời :

Có nhiều quan điểm và định nghĩa về hiến pháp. Tuy nhiên, hiểu một cách khái quát, hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.

Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không được trái với hiến pháp. Vị trí tối cao của hiến pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo luật bình thường chỉ do quốc hội (nghị viện) gồm những người đại diện do dân bầu và uỷ quyền xây dựng.

Câu hỏi 2:

Tại sao cần có hiến pháp?

Trả lời :

Lịch sử tồn tại và phát triển của hiến pháp gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Do nhu cầu chung sống, duy trì sự tồn tại và phát triển, con người cần có nhà nước. Các nhà nước cần được xây dựng dựa trên những quy tắc tổ chức để bảo đảm rằng bộ máy cơ quan của nó có thể quản lý được mọi hoạt động trong xã hội một cách hiệu quả. Ngay từ thời cổ đại, ở phương Đông và cũng như phương Tây, đã có những văn bản đề cập đến những quy tắc tổchức và hoạt động của nhà nước mà đôi khi được coi như là hiến pháp, ví dụ như ở Hy Lạp.

Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Cách mạng Tư sản, do nhu cầu hoàn thiện các quy định về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và ghi nhận các quyền tự do của người dân để hạn chế việc lạm dụng của chính quyền mới dẫn đến sự ra đời của hiến pháp theo cách hiểu hiện đại. Trong thời đại ngày nay, sự hiện diện của hiến pháp, thành văn hoặc không thành văn, là một tiêu chí không thể thiếu của chế độ dân chủ. Hiến pháp có tác dụng khẳng định tính chính đáng của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xác định những phương thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước và ngăn chặn sự xâm phạm của chính quyền lực nhà nước đến các quyền và tự do của người dân. Hiến pháp, do đó, rất cần thiết cho sự phát triển của một đất nước cũng như mỗi người dân.

Câu hỏi 3:

 Hiến pháp tồn tại dưới những hình thức nào?

Trả lời :

Xét hình thức biểu hiện, có hai loại hiến pháp: hiến pháp thành văn và hiến pháp không thành văn. Hiến pháp thành văn được lập thành một văn bản riêng và được tuyên bố chính thức là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý tối cao. Hiện tại, hầu hết quốc gia trên thế giới có hiến pháp thành văn, do ở dạng thức này hiến pháp có nội dung rõ ràng, cụ thể, dễ áp dụng hơn hiến pháp không thành văn.

Hiến pháp thành văn thông thường có một văn bản duy nhất, nhưng đôi khi ngoài văn bản chính còn kèm theo các bản tu chính (như Hiến pháp Hoa Kỳ…),hoặc một văn bản khác (như Hiến pháp Cộng hoà Pháp 19581…).Hiến pháp không thành văn là tập hợp các quy phạm, tập quán và tư tưởng phản ánh những giá trị cốt lõi của một quốc gia, được thể hiện trong một số đạo luật, văn bản chính trị, pháp lý và thậm chí cả án lệ. Các quy phạm, tập quán và tư tưởng này được coi như là các quy tắc mang tính hiến pháp, có hiệu lực tối cao, cho dùchúng không cấu thành một văn bản riêng và không được tuyên bố chính thức là luật cơ bản của nhà nước. Hiện tại chỉ có hiến pháp của một vài nước (bao gồm Anh, New Zealand, Israel) thuộc dạng này. Nước Anh là một ví dụ điển hình của dạng hiến pháp không thành văn. Hiến pháp nước này được hình thành từ các nguồn: i) Một số văn kiện pháp lý mang tính lịch sử (Đại Hiến chương Magna Carta Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1793 của Cách mạng Pháp được nhắc đến trong Lời nói đầu và được coi là một phần của Hiến pháp Cộng hoà Pháp 1958, Luật về các quyền năm 1689..);

Một số đạo luật quan trọng hiện hành (Luật nhân quyền năm 1998, Luật tự do thông tin năm 2000, Luật cải cách Hiến pháp năm 2005..); iii) Một số tập quán chính trị (chẳng hạn, tập quán Nhà Vua (hay Nữ hoàng) tham vấn các bộ trưởng trước khi ra quyết định..); iv) Một số án lệ của Tòa án (chẳng hạn, phán quyết trong vụ Entick kiện Carrington, trong đó xác lập những nguyên tắc giới hạn quyền lực của ngành hành pháp); v) Học thuyết của một số chuyên gia về hiến pháp (chẳng hạn như John Locke, Walter Bagehot, A.V Dicey..).Căn cứ vào thủ tục sửa đổi, có thể chia hiến pháp thành hai loại “cứng” (rigid constitution) và “mềm dẻo” (fl exible constitution), trong đó hiến pháp cứng đòi hỏi việc sửa đổi phải tuân theo những thủ tục đặc biệt, còn hiến pháp mềm dẻo thì có thể sửa đổi theo thủ tục lập pháp thông thường của nghị viện. Xét theo hai tiêu chí kể trên, Việt Nam có hiến pháp thành văn và thuộc dạng “mềm dẻo”.

Câu hỏi 4:

 Hiến pháp xuất hiện từ bao giờ và phát triển như thế nào?

Trả lời :

Như đã đề cập, từ hàng ngàn năm trước công nguyên, ở nhiều khu vực đã có những đạo luật được.

 Ví dụ, như Hiến pháp Hoa Kỳ. Việc sửa đổi hiến pháp này phải có sự đồng ý của nghị viện của 3/4 số tiểu bang, hoặc phải thông qua một Hội nghị lập hiến thiết lập để điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản trong xã hội. Vì thế, đôi khi chúng cũng được coi là hiến pháp. Mặc dù vậy, theo nghĩa hiện đại, Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 được thừa nhận rộng rãi là bản hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới.Trong thời kỳ đầu (cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19), các hiến pháp chủ yếu được xây dựng ở Bắc Mỹ và châu Âu, sau đó dần lan sang một số nước châu Á và châu Mỹ La-tinh. Phải từ sau thập kỷ 1940, số quốc gia trên thế giới có hiến pháp mới tăng nhanh, đặc biệt ở khu vực châu Á và châu Phi, cùng với thắng lợi của phong trào giành độc lập dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa của các nước thực dân châu Âu. Hiện nay, không chỉ các quốc gia mà một số lãnh thổ trên thế giới cũng ban hành hiến pháp. Trong giai đoạn đầu, hiến pháp (còn gọi là hiến pháp cổ điển) thường có nội dung hẹp (chủ yếu quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và một số quyền cơ bản của công dân). Kể từ sau năm 1917, xuất hiện mô hình hiến pháp của các nước XHCN (XHCN) với nội dung rộng hơn nhiều (ngoài các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và quyền công dân, còn đề cập đến cả chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng, an ninh…). Xen giữa hai trường phái này là một dạng hiến pháp có nội dung trung hoà.

Kể từ đầu thập kỷ 1980, hiến pháp hiện đại có xu hướng hiến định các cơ quan độc lập để giám sát quyền lực (hội đồng bầu cử quốc gia, hội đồng/toà án hiến pháp, ngân hàng nhà nước, ombudsman, cơ quan công vụ, cơ quan nhân quyền 18 | quốc gia, cơ quan chống tham nhũng quốc gia…) những thiết chế mà trước đó ít hoặc chưa được quy định trong hiến pháp. Quá trình phát triển bao gồm cả việc sửa đổi hoặc thay thế hiến pháp.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã từng nhiều lần sửa đổi hoặc thay thế hiến pháp. Ví dụ, thuộc dạng “cứng”, Hiến pháp Mỹ từ 1787 đến nay đã trải qua 27 lần tu chính, còn thuộc dạng “mềm dẻo”, Hiến pháp Thái Lan từ năm 1932 đến năm 2007 đã 16 lần thay đổi (chưa tính các bản hiến pháp lâm thời)…Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô-Đông Âu cũ vào những năm cuối thế kỷ 20 đã dẫn đến sự thay đổi hiến pháp của một loạt quốc gia trong khu vực này và nhiều khu vực khác trên thế giới.

Câu hỏi 5 :

Hiến pháp có những chức năng gì?

Trả lời:

Hiến pháp có các chức năng cơ bản sau đây:

- Thiết lập và trao quyền cho bộ máy nhà nước: Hiến pháp quy định cơ cấu của bộ máy nhà nước và trao quyền hạn cho các cơ quan nhà nước chính (quyền lập pháp cho Nghị viện/Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ, quyền tư pháp cho Tòa án). Chỉ khi được quy định trong hiến pháp, các cơ quan nhà nước và quyền lực của các cơ quan đó mới có tính pháp lý chính đáng.

- Giới hạn và kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước: Cùng với việc trao quyền, hiến pháp xác định giới hạn và cách thức sử dụng quyền lực được giao của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, hiến pháp còn thiết lập các cơ chế và thiết chế để giám sát, kiểm soát và xử lý việc lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước (ví dụ, cơ chế giám sát nội bộ giữa các cơ quan nhà nước; cơ chế giám sát của xã hội thông qua các quyền con người, quyền công dân; cơ chế giám sát thông qua các cơ quan hiến định độc lập).

- Bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân: Quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung quan trọng nhất không thể thiếu của các hiến pháp từ trước tới nay. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, các hiến pháp còn quy định các cơ chế, thiết chế để bảo đảm rằng các quyền đó được tôn trọng, thực hiện trong thực tế, ví dụ như Uỷ ban nhân quyền quốc gia. Chính vì vậy, theo Alexander Hamilton: “Bản thân Hiến pháp, với ý nghĩa thực sự và mục đích hữu dụng thực sự, chính là một đạo luật về các quyền”

- Ngoài các chức năng cơ bản nêu trên, một số hiến pháp còn đóng vai trò là văn bản tuyên bố các giá trị cốt lõi của một dân tộc và những định hướng phát triển của một đất nước.

Câu hỏi 6:

Hiến pháp quan trọng như thế nào đối với một quốc gia?

Trả lời:

Một bản hiến pháp tốt là nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và một nhà nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi của người dân. Đây là những yếu tố không thể thiếu để một quốc gia ổn định và phát triển.

Lịch sử nhân loại cho thấy hiến pháp gắn liền với vận mệnh của mỗi quốc gia. Sự thịnh vượng, tính năng động, sức sáng tạo mạnh mẽ của xã hội và khả năng “hoá giải” khủng hoảng một cách nhanh chóng của một số quốc gia (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức…) được cho là xuất phát từ những nguyên tắc được xác lập trong hiến pháp của các nước này. Ngược lại, sự suy yếu và sụp đổ của nhiều quốc gia có nguyên nhân từ những thiết chế, quy phạm chuyên chính, tập quyền và xa rời thực tế trong hiến pháp của các nước đó.

Câu hỏi 7:

 Hiến pháp quan trọng như thế nào đối với mỗi người dân?

Trả lời:

Một bản hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét trên nhiều phương diện.Trước hết, một bản hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân chủ thực sự, trong đó mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến và quan điểm về các vấn đề của đất nước và bản thân mình mà không sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt. Đây là tiền đề để khai mở và phát huy trí tuệ, năng lực của mọi cá nhân trong xã hội, cũng như để phòng, chống lạm quyền và tham nhũng.Một bản hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế, cũng như các cơ chế cho phép mọi người dân có thể sử dụng để bảo vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. Hiến pháp tốt là công cụ pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để bảo vệ dân quyền và nhân quyền.Cuối cùng, một bản hiến pháp tốt, với tất cả những ưu điểm nêu trên, sẽ tạo ra sự ổn định và phát triển của đất nước, qua đó giúp người dân thoát khỏi sự đói nghèo.

Câu hỏi 8:

Hiến pháp có vị trí như thế nào trong hệ thống pháp luật quốc gia?

Trả lời:

Ở mọi nước trên thế giới, hiến pháp đều được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nền tảng để xây dựng các đạo luật thông thường khác. Mọi đạo luật thông thường đều nhằm để cụ thể hoá các chế định, quy phạm của hiến pháp, và vì vậy, không được trái với hiến pháp. Khi hiến pháp được thay thế hoặc sửa đổi, các đạo luật có những quy định trái hoặc còn thiếu so với nội dung của hiến pháp đều phải được thay thế hoặc sửa đổi theo. Điều này tạo ra tính thống nhất của hệ thống pháp luật quốc gia.

Câu hỏi 9:

Có những yếu tố gì để phân biệt giữa hiến pháp và các đạo luật khác của quốc gia?

Trả lời:

Một bản hiến pháp khác biệt so với các đạo luật thông thường khác của quốc gia ở những điểm cơ bản sau:

- Tính chất: Hiến pháp là văn bản thể hiện và bảo vệ chủ quyền của nhân dân, thông qua việc giới hạn quyền lực của nhà nước và khẳng định các quyền con người, quyền công dân. Trong khi đó, các đạo luật thông thường là tập hợp những quy tắc cư xử bắt buộc do nhà nước lập ra để quản lý xã hội, vì thế mang tính chất là công cụ pháp lý của nhà nước, chủ yếu phản ánh ý chí của nhà nước (tuy về nguyên tắc không được đi ngược với ý chí của nhân dân vì không được trái với hiến pháp).

- Phạm vi và mức độ điều chỉnh: Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rất rộng, liên quan đến tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc gia, song chỉ tập trung vào các mối quan hệ cơ bản và chỉ đề cập đến các nguyên tắc định hướng, nền tảng, không đi sâu vào chi tiết. Trong khi đó, các đạo luật thông thường chỉ đề cập đến một lĩnh vực, thậm chí một nhóm quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định, nhưng đi sâu điều chỉnh từng mối quan hệ cụ thể.

-  Thủ tục xây dựng và sửa đổi: Quy trình xây dựng và sửa đổi hiến pháp bao gồm nhiều thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi nhiều thời gian hơn so với các đạo luật thông thường, đặc biệt với những hiến pháp “cứng”. Ngay cả với những hiến pháp “mềm dẻo” cũng đòi hỏi việc xin ý kiến nhân dân (ở nhiều quốc gia phải tổ chức trưng cầu ý dân) là bắt buộc khi xây dựng hiến pháp (trong khi ở một số quốc gia việc này không nhất thiết phải thực hiện với mọi đạo luật thông thường). Thêm vào đó, việc thông qua hiến pháp cũng đòi hỏi tỷ lệ biểu quyết cao hơn (đa số 2/3) so với việc thông qua các đạo luật thông thường.

Câu hỏi 10

Vì sao nói hiến pháp là một “khế ước xã hội”?

Trả lời:

Theo Tự điển pháp luật Black (Black’s Law Dictionary), hiến pháp là “…một hợp đồng giữa chính quyền và người dân, theo đó quyền cai trị của chính quyền do người dân trao cho”.

Hiến pháp là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước và quản lý xã hội. Vì thế, việc xây dựng hiến pháp cũng có nghĩa là việc xác định cách thức các mối quan hệ cơbản trong xã hội sẽ được giải quyết như thế nào. Do chủquyền nhân dân là quyền lực tối cao ở một quốc gia nên về nguyên tắc chỉ có người dân mới có quyền xây dựng hiến pháp. Về vấn đề này, Thomas Paine 4 từng nói: “Hiến pháp không phải là đạo luật của một chính phủ, mà là đạo luật của một dân tộc nhằm cấu thành nên chính phủ…”.

Quá trình xây dựng hiến pháp tất yếu diễn ra những tranh luận và thoả hiệp giữa các cá nhân và nhóm công dân nhằm tìm ra cách thức tổ chức nhà nước và quản lý xã hội mang lại nhiều lợi ích tốt nhất cho tất cả mọi chủ thể. Vì thế, có thể coi hiến pháp là một khế ước xã hội, mặc dù trên thực tế điều này không bao giờ chính xác hoàn toàn, bởi rất ít khi tất cả cá nhân và nhóm trong xã hội ở một quốc gia đều có thể tham gia và có vai trò, ảnh hưởng thực sự trong quá trình xây dựng hiến pháp.

Câu hỏi 11: Vì sao nói hiến pháp là văn bản tổ chức quyền lực nhà nước?

Trả lời:

 Hiến pháp của quốc gia nào cũng đóng vai trò như là một đạo luật gốc, cơ bản và khái quát nhất, về tổ chức quyền lực nhà nước. Chúng đều có những chế định (tập hợp các quy định, quy phạm) xác lập cơ cấu, các quy tắc tổ chức, vận hành và mối quan hệ giữa các cấu phần cơ bản của bộ máy nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp (quốc hội/nghị viện), cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp (tòa án). Dựa trên các chế định này của hiến pháp, các đạo luậtvề tổ chức nhà nước sẽ được xây dựng để chi tiết hoá những vấn đề còn chưa cụ thể. Các đạo luật này chỉ có thể cụ thể hóa mà không được có những quy định trái với hiến pháp.

Câu hỏi 12:

 Vì sao nói hiến pháp là phương tiện bảo vệ quyền con người, quyền công dân?

Trả lời:

Như đã đề cập, một trong những chức năng cơ bản của hiến pháp là bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Thông qua hiến pháp, người dân xác định những quyền gì của mình mà nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cùng những cách thức để bảo đảm thực thi những quyền đó.

Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, hiến pháp là bức tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền công dân của hiến pháp còn được phát huy qua việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền, cụ thể như thông qua hệ thống toà án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội hay toà án

hiến pháp…

Câu hỏi 13

Vì sao nói hiến pháp là văn bản thể hiện và bảo vệ chủ quyền của nhân dân?

Trả lời:

Thuật ngữ chủ quyền nhân dân được đề cập vào thế kỷ XVIII bởi J.J.Rousseau, chỉ ý chí chung của cộng Thomas Paine (1737-1809) - nhà triết học, nhà cách mạng, người theo trường phái chủ nghĩa tự do cổ điển, một nhân vật nổi bật trong phong trào Khai sáng. Ông là người ủng hộ nhiệt tình cuộc cách mạng giành độc lập của các thuộc địa Mỹ khỏi Đế chế Anh. Những tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm: Common Sense (1776), Rights of Man (1791), The Age of Reason (1794), Agrarian Justice (1795).. đồng xã hội (nhân dân). Theo Rousseau, chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn thực chất, các bộ phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Chủ quyền nhân dân là nền tảng cho sự ra đời của nhà nước, vì thế cao hơn, chi phối và là cơ sở bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiện nay, tư tưởng về chủ quyền nhân dân đã được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Hiến pháp của các nước, dưới các hình thức khác nhau (nhưng thông thường ở ngay Lời nói đầu), đều khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Ví dụ, Lời nói đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 nêu rằng: Chúng tôi nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, với mục đích xây dựng một Liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công lý, duy trì an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng chung, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định thiết lập hiến pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hoặc Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: Được nhân dân trao cho trách nhiệm soạn thảo hiến pháp, Quốc hội nhận thấy hiến pháp cần phải được xây dựng theo các nguyên tắc sau: Đoàn kết toàn dân không phân biệt nòi giống, giàu nghèo, gái trai, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Để thể hiện và bảo vệ chủ quyền nhân dân, thông thường hiến pháp chỉ có thể được thông qua với sự chấp thuận của nhân dân (qua trưng cầu ý dân). Thêm vào đó, hiến pháp thường quy định các nguyên tắc bầu cử (tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín) như là phương thức để nhân dân ủy quyền cho các thiết chế đại diện. Ngoài ra, việc quy định các cơ chế, thiết chế giám sát, kiểm soát quyền lực (giữa các cơ quan nhà nước và giữa nhân dân với nhà nước) trong hiến pháp cũng là những cách thức để bảo đảm quyền lực của nhân dân.

Câu hỏi 14:

Vì sao nói hiến pháp là công cụ để phòng, chống tham nhũng?

Trả lời:

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế: “Tham nhũng là lạm dụng quyền lực được giao để thu lợi riêng”. Từ định nghĩa này, có thể thấy bản chất của tham nhũng chính là sự tha hoá của quyền lực – một quá trình mang tính quy luật mà đã được John Acton (1834-1902) vạch ra từ năm 1887: “Quyền lực dẫn tới sự tha hóa. Quyền lực tuyệt đối dẫn tới sự tha hóa một cách tuyệt đối”. Để ngăn ngừa tham nhũng cần phải kiểm soát và chế ước những chủ thể nắm giữ quyền lực. Đây là một trong những chức năng cơ bản của hiến pháp. Tuỳ theo từng quốc gia, hiến pháp quy định những cách thức giám sát, kiểm soát quyền lực khác nhau, song đều triển khai theo cả hai phương diện: giám sát, kiểm soát trong nội bộ các cơ quan nhà nước (mà đặc trưng là cơ chế tam quyền phân lập) và giám sát, kiểm soát của nhân dân từ bên ngoài với bộ máy nhà nước.

Ngoài những quy định về kiềm chế đối trọng giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, hiến pháp của một số quốc gia, ví dụ như Thái Lan, còn quy định nhiều cơ chế và thiết chế giám sát quyền lực khác bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, cụ thể như: chế độ bất khả kiêm (cấm các quan chức nhà nước không đồng thời giữ hai chức vụ hay có vai trò trong các đảng chính trị); chế độ công khai, minh bạch tài sản và thu nhập (của các quan chức nhà nước); các quy định chống xung đột lợi ích (cấm các quan chức và người thân trực tiếp hay gián tiếp tham gia các doanh nghiệp nhà nước hay cung cấp dịch vụ công); mở rộng các quyền dân sự chính trị, đặc biệt là tự do thông tin, để người dân dễ dàng giám sát chính phủ; thành lập các thiết chế hiến định độc lập để giám sát, xử lý các quan chức tham nhũng,cụ thể như toà án hiến pháp (thậm chí cả toà án hình sự riêng để xét xử những người giữ chức vụ chính trị cao), Uỷ ban chống tham nhũng quốc gia, cơ quan Thanh tra Quốc hội, Hội đồng Kiểm toán quốc gia, Uỷ ban Nhân quyền quốc gia, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Câu hỏi 15:

Vì sao nói hiến pháp là công cụ để đánh giá một nền dân chủ?

Trả lời:

Theo Patrick Henry: “Hiến pháp không phải là một công cụ của chính phủ để đàn áp nhân dân, mà là một công cụ để nhân dân kiềm chế chính phủ ..”. Câu nói này phản ánh một cách khái quát mối quan hệ giữa hiến pháp và dân chủ. Nó cũng có nghĩa là thông qua hiến pháp có thể bước đầu đánh giá được một nền dân chủ.Bản chất của hiến pháp là dân chủ, vì nó thể hiện quyền lực của nhân dân và phải được thông qua với sự đồng ý của nhân dân.

 Như vậy, hiến pháp phản ánh một nền dân chủ trước hết qua cách thức làm ra nó. Về khía cạnh này, khả năng, mức độ tham gia (thực chất) của người dân vào việc xây dựng và thông qua hiến pháp tỷ lệ thuận với tính dân chủ của một nhà nước. Ở một quốc gia càng dân chủ, nhà nước càng áp dụng nhiều biện pháp để người dân có thể tự do và thuận lợi đóng góp ý kiến vào việc xây dựng hiến pháp, cũng như vào việc bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp. Thêm vào đó, ở một quốc gia dân chủ, quá trình trưng cầu ý dân và xin ý kiến nhân dân được thực hiện một cách trân trọng, minh bạch, dưới sự giám sát chặt chẽ của báo chí và các tổ chức xã hội dân sự. Điều này rất quan trọng vì hầu hết các nước thực hiện trưng cầu ý dân hoặc các hình thức xin ý kiến nhân dân.

 Patrick Henry (1736-1779) - thống đốc bang Virginia của Mỹ những năm 1770, một trong những người sáng lập ra nước Mỹ, thành viên của Hội nghị lập hiến 1787, nổi tiếng với tư tưởng cách mạng và tinh thần kiên quyết chống tham nhũng thảo hiến pháp, nhưng ở nhiều quốc gia quá trình này được tiến hành một cách hình thức, thiếu minh bạch hoặc đi kèm với sự đe doạ (công khai hay ngấm ngầm) của chính quyền khiến người dân không dám thể hiện quan điểm thật sự của mình.Tính chất, mức độ của một nền dân chủ cũng được thể hiện qua nội dung của hiến pháp. Về khía cạnh này, một hiến pháp càng có cơ chế giám sát quyền lực và bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiến bộ thì càng thể hiện tính chất, mức độ dân chủ cao của nhà nước. Đó là bởi chỉ trong môi trường dân chủ, các vấn đề này mới được khẳng định trong hiến pháp. Đến lượt nó, một khi đã được ghi nhận trong hiến pháp, những vấn đề này sẽ là nền tảng để thúc đẩy nền dân chủ của quốc gia.

Câu hỏi 16

Hiến pháp và pháp quyền liên hệ với nhau như thế nào?

Trả lời:

Pháp quyền, hay “nhà nước pháp quyền” như thường gọi ở Việt Nam), theo định nghĩa giản dị của Max Weber, là một trật tự xã hội dựa trên sự “thượng tôn luật pháp”. Trật tự này phản ánh quan niệm của John Loall" />

Phần IV. MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA CHUYÊN GIA VỀ VIỆC

SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

 

HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HIẾN PHÁP DÂN CHỦ, PHÁP QUYỀN VÀ PHÁT TRIỂN

 
 

 

 

GS.TS. Phan Trung Lý

Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội

Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội

 

Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi). Đây là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động lập hiến phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới, tiếp tục hoàn thiện đổi mới, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.   

Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp, đạo luật cơ bản của nhà nước phù hợp với tình hình mới, tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII (tháng 8/2011) đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Ngay sau khi được thành lập, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Hoạt động này đã được các cấp, các ngành triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Đây cũng là lần đầu tiên Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được in gửi tới từng hộ gia đình để người dân được tiếp cận, nghiên cứu, biết được những quyền, nghĩa vụ của mình cũng như những vấn đề khác được quy định trong Hiến pháp. Với sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp Quốc hội (kỳ 4, kỳ 5 và kỳ 6), 3 lần trình Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa XI (HNTW 5, HNTW 7 và HNTW 8) và rất nhiều lần xin ý kiến của Bộ Chính trị và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6.

Ngày 28 tháng 11 năm 2013, trong không khí trang nghiêm, đầy xúc động, với đa số phiếu tuyệt đối (486/488 đại biểu Quốc hội tán thành, chiếm 97,59%), Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.

VỀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến xác đáng của nhân dân, của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Có thể nói, Hiến pháp đã kết tinh được tinh hoa trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, thể hiện được ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 2013 thực sự là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến (ví dụ về bố cục: Hiến pháp chỉ còn 11 chương, 120 điều - giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992; có 12 điều mới[1], giữ nguyên 7 điều[2] và sửa đổi, bổ sung 101 điều; Lời nói đầu Hiến pháp năm 1992 gồm 6 khổ với 536 từ được viết ngắn gọn, súc tích chỉ còn 3 khổ với 290 từ,...). Đồng thời, Hiến pháp cũng đã thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp; cụ thể:

Thứ nhất, Hiến pháp đã đề cao quyền làm chủ của người dân, thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ của Nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân

Dân chủ và chủ quyền nhân dân được thể hiện rõ hơn trong bản Hiến pháp thông qua việc ghi nhận chủ quyền nhân dân ngay từ Lời nói đầu với quy định:  “...Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các quy định trong Hiến pháp cũng đã thể hiện rõ đường lối, chủ trương của Đảng ta lấy con người làm trung tâm, đề cao quyền làm chủ của người dân. Hiến pháp đã kế thừa và phát triển quy định về con người thuộc các tầng lớp khác nhau, các thế hệ khác nhau, các hoàn cảnh khác nhau; tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người cùng phát triển.

Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức (Điều 2). Đồng thời, Hiến pháp quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Theo đó, “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp. Đây là cơ sở hiến định để tiếp tục thể chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.

Bên cạnh đó, Hiến pháp còn quy định cụ thể hơn các phương thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992.

Thứ hai, Hiến pháp tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân

Hiến pháp tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Cùng với quy định khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, tại Điều 4 của Hiến pháp đã bổ sung nội dung quan trọng về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Thứ ba, Hiến pháp tiếp tục khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Hiến pháp tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong Lời nói đầu và các điều khoản cụ thể của Hiến pháp; giữ quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Công đoàn trong Hiến pháp năm 1992 nhưng bổ sung, làm rõ vai trò của Mặt trận, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam(Điều 9, Điều 10).  

Thứ tư, Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 được quy định ở Chương V thì trong Hiến pháp sửa đổi được chuyển lên Chương II, đồng thời bổ sung quy định về quyền con người. Đây không đơn thuần là sự thay đổi về kỹ thuật lập hiến mà là một sự thay đổi lớn về tư duy, nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề này. Điều này cũng đã được minh chứng bằng việc Việt Nam thời gian qua đã có nhiều nỗ lực trong việc đạt được những thành tựu về nhân quyền, dành được sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Hiến pháp quy định nội dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân.

Hiến pháp quy định một nguyên tắc rất cơ bản là “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng quy định một nguyên tắc khác để bảo đảm quyền con người, quyền công dân không bị hạn chế một cách tùy tiện: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Quy định này vừa thể hiện chủ trương tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, vừa thể hiện yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về quyền con người.

Thứ năm, Hiến pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường

Hiến pháp đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng được xác định trong Cương lĩnh về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường; lồng ghép các điều khoản theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản và khái quát hơn. Điều này là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững, gắn phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Cụ thể:

- Về thành phần kinh tế (Điều 51): Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp đã quy định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng, cạnh tranh, cùng phát triển.

- Về đất đai (Điều 53 và Điều 54): Hiến pháp khẳng định đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Hiến pháp khẳng định yêu cầu tôn trọng quyền sử dụng đất của người dân.

Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là vẫn cần thiết. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp đã quy định việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng. Theo đó, khoản 3 Điều 54 của Hiến pháp quy định: Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.

- Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường: Cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực trong Hiến pháp năm 1992, nhưng được thể hiện lại một cách tổng quát, chỉ nêu những định hướng lớn đã được xác định trong Cương lĩnh; còn những vấn đề cụ thể sẽ do luật định.

Thứ sáu, Hiến pháp tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục của Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong việc xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành, khẳng định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân. Tuy nhiên, do nội hàm bảo vệ Tổ quốc rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, Hiến pháp đã quy định khái quát “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân” tại Điều 64; còn những vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thì được quy định tại các điều 65, 66, 67, 68 và trong các nội dung khác của Hiến pháp.

Thứ bảy, Hiến pháp tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước; cụ thể là:

Về Quốc hội (Chương V):

Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cụ thể như sau:

- Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được chuyển thành quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội (khoản 3 Điều 70) để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ; 

- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân nhằm làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp (khoản 7 Điều 70);

- Giao thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đề nghị của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội (Điều 74);

- Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 74).

Về Chủ tịch nước (Chương VI):

Hiến pháp tiếp tục khẳng định, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Hiến pháp đã làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp. Đồng thời, đã làm rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước trong việc quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam…; cùng với đó là bổ sung quy định thẩm quyền của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch quyết định việc lực lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Về Chính phủ (Chương VII):

Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội, làm rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

Về Tòa án nhân dân (Chương VIII):

Trên cơ sở tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định.

Về Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII):

Tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.

Về chính quyền địa phương (Chương IX):

- Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

- Về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”, việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ do luật định.

Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Chương X):

Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”. Hiến pháp mới đã quy định tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.

Về Kiểm toán Nhà nước (Chương X):

Hiến pháp mới cũng quy định một thiết chế hiến định độc lập là Kiểm toán Nhà nước phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ tám, Hiến pháp tiếp tục khẳng định vai trò của đối ngoại và chủ động hợp tác quốc tế 

Hiến pháp có những sửa đổi, bổ sung về chính sách đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới; khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới (Điều 12).

Thứ chín, về kỹ thuật lập hiến  

Để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính ổn định lâu dài, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc cần thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích. Theo đó, những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp còn quy trình, thủ tục, cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ cần để luật điều chỉnh. Một số chủ trương, chính sách cụ thể về phát triển ngành, lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao) không quy định trong Hiến pháp mà để luật điều chỉnh để bảo đảm tính linh hoạt trong bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách và trong quản lý, điều hành. 

Thứ mười, về hiệu lực của Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp

Hiến pháp đã khẳng định giá trị pháp lý cao nhất của đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy trình sửa đổi Hiến pháp, trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan nhà nước cũng như toàn dân trong việc bảo vệ Hiến pháp.

Để  có căn cứ pháp lý cho việc triển khai thi hành Hiến pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong đó quy định rõ thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày thông qua; thời điểm Hiến pháp mới có hiệu lực là từ ngày 01/01/2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, với những sửa đổi của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 vừa qua sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân./.

 

VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI THEO YÊU CẦU CỦA KHOẢN 2 ĐIỀU 14 HIẾN PHÁP 2013

                                                                            PGS.TS.Phạm Hữu Nghị

                                                                           Viện Nhà nước và Pháp luật

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Để triển khai thực hiện quy định quan trọng này của Hiến pháp, chúng ta cần phân tích để hiểu được nội dung của quy định này.

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận một vấn đề rất quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đó là vấn đề ahnj chế quyền con người, quyền công dân.

Bài tham luận này xin giới thiệu các quy định của pháp luật quốc tế, của Hiến pháp một số nước về vấn đề hạn chế quyền con người, quyền công dân; lý giải nội dung của khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013; đưa ra một số kiến nghị về việc hiểu và thực hiện quy định hiến định này.

1. Vấn đề hạn chế quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế

Các văn bản pháp luật quốc tế được nói đến trong tham luận này chính là bộ đôi công ước nổi tiếng về quyền con người: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1996 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1996.

Xét về bản chất, thuật ngữ dùng trong các văn bản pháp luật quốc tế có thể dịch  là giới hạn hoặc hạn chế quyền con người. Quy định về giới hạn một số quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế là sự cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện đối với việc thực hiện, hưởng thụ một số quyền con người nhất định. Còn những quyền không bị giới hạn được gọi là các quyền tuyệt đối.

Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1996 khẳng định: “Các quốc gia thành viên thừa nhận răng, trong khi ấn định các quyền mà mỗi cá nhân được hưởng htuj phù hợp với các quy định của Công ước này, mỗi quốc gia chỉ có thể đặt ra những hạn chế bằng các quy định pháp luật trong chừng mực những hạn chế ấy không trái với bản chất của các quyền nói trên và hoàn toàn vì mục đích thúc đẩy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.

Như vậy, theo Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, các quốc gia thành viên có thể đặt ra những giới hạn với các quyền con ghi nhận trong Công ước, với các điều kiện sau:

1. Những giới hạn đó phải được quy định trong pháp luật quốc gia;

2. Những giới hạn đặt ra không trái với bản chất của các quyền có liên quan;

3. Việc đặt ra các hạn chế về quyền là cần thiết trong một xã hội dân chủ và nhằm mục đích duy nhất là để thúc đẩy lợi ích chung của cộng đồng.

2. Sự ghi nhận việc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp một số nước

Vấn đề giới hạn, hạn chế, tạm đình chỉ việc thực hiện quyền con người, được các nhà lập hiến của các quốc gia quan tâm. Qua tìm hiểu của chúng tôi, có ba cách ghi nhận vấn đề giới hạn quyền, hạn chế và tạm đình chỉ việc thực hiện quyền như sau:

Thứ nhất, Hiến pháp ghi nhận trong một điều về nguyên tắc giới hạn, hạn chế, tạm đình chỉ việc thực hiện quyền con người.

Có thể nêu ra trường hợp Cộng hòa Nam Phi.

Hiến pháp năm 1995 của Cộng hòa Nam Phi dành chương II để ghi nhận Bộ luật về quyền. Tại mục 36 có đưa ra nguyên tắc:

Các quyền trong Bộ luật về quyền chỉ có thể bị giới hạn trong chừng mực hợp lý và công bằng trong một xã hội dân sự và cởi mở dự trên nhân phẩm, sự bình đẳng và tự do, có tính đến tất cả các yếu tố sau đây:

a. Bản chất của quyền;

b. Tầm quan trọng của việc giới hạn;

c. Bản chất và mức độ của sự giới hạn;

d. Mối quan hệ giữa giới hạn và mục đích của nó;

e. Các biện pháp ít hạn chế hơn nhưng cùng đạt được mục tiêu đó.

Ngoài Hiến pháp, không một đạo luật nào có thể giới hạn bất kỳ quyền nào được ghi nhận trong Bộ Luật về quyền..

Theo Hiến pháp Nam Phi, việc tạm đình chỉ thực hiện quyền con người chỉ có thể xảy ra trong những tình trạng khẩn cấp, việc tạm đình chỉ này được thực hiện nếu:

Việc tạm đình chỉ phải là yêu cầu thực sự xuất phát từ tình trạng khẩn cấp và đạo luật ban bố tình trạng khẩn cấp phải phù hợp với nghĩa vụ của Nam Phi theo Luật quốc tế áp dụng trong trường hợp khẩn cấp, đượng đăng trên Công báo ngay khi được thông qua.

Hiến pháp Nam Phi cũng quy định rõ, ngay trong bối cảnh tình trạng khẩn cấp các quyền không thể bị tạm đình chỉ:

- Quyền bình đẳng;

- Quyền về nhân phẩm;

- Quyền về bảo vệ tính mạng;

- Quyền tự do và an ninh cá nhân;

- Quyền không bị bắt làm nô lệ, nô dịch và lao động cưỡng bức;

- Quyền của trẻ em.

Trong Hiến pháp Hàn Quốc cũng có một điều ghi nhận về nguyên tắc giới hạn, hạn chế quyền: Các quyền tự do của công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật khi cần thiết cho an ninh quốc gia, duy trì pháp luật và trật tự hoặc vì lợi ích công cộng. Ngay cả khi áp đặt các hạn chế như vậy, không được vi phạm các yếu tố thiết yếu của các quyền tự do.

2. Quy định  về việc hạn chế thực hiện quyền con người theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo yêu cầu của khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định : “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như đã phân tích tại mục 1 và mục 2, việc quy định về hạn chế quyền con người là phù hợp với quy định của các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nó cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Về hạn chế quyền con người có thể hiểu là đương nhiên, nó nằm trong bản chất của quyền con người. Nghĩa là quyền của người này bị hạn chế trong mối quan hệ với quyền của người khác và lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Trong một xã hội dân chủ, Nhà nước pháp quyền thì một số quyền con người có thể và cần bị hạn chế. Chẳng hạn, quyền tự do hội họp bị hạn chế trong khuôn khổ của hội họp hòa bình; quyền tự do ngôn luận bị hạn chế để bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người khác, bảo vệ đạo đức xã hội; quyền tiếp cận thông tin bị hạn chế đối với các bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh..

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã xác lập một nguyên tắc chung về hạn chế quyền con người. Nguyên tắc này cần được quán triệt, tuân thủ trong hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội con người, công dân đều có quyền và có các nghĩa vụ. Con người, công dân có quyền, được hưởng quyền thì cũng phải gánh vác nghĩa vụ trước Nhà nước, trước xã hội và trước người khác.

Quyền con người, quyền công dân là những quyền mà con người, công dân có toàn quyền định đoạt. Đây là những quyền không thể bị tước đoạt. Chúng chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật (chứ không phải là văn bản dưới luật) trong trường hợp đặc biệt như quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp sửa đổi.

Việc hạn chế việc thực hiện quyền con người chính là điều kiện để bảm đảm tính hiện thực của các quyền con người, quyền công dân. Nó bảo đảm sự cân bằng giữa các lợi ích trong mối quan hệ Nhà nước – Con người, Công dân, cá nhân; bảo đảm sự minh bạch và lành mạnh của các mối quan hệ này.

Nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực công có trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để bảo đảm trật tự xã hội, bảo đảm sự phát triển của xã hội, phát triển con người, Nhà nước cần tạo ra cơ sỏ pháp lý vững chắc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Quyền con người, quyền công dân không phải là vô giới hạn. Quyền con người, quyền công dân có thể bị hạn chế. Đó là vấn đề có tính tất yếu. Vấn đề đặt ra là hạn chế như thế nào và hạn chế bằng cơ chế nào. Đây chính là vấn đề xác định căn cứ, cơ sở của việc hạn chế quyền. Đây cũng chính là cơ chế hạn chế quyền, hạn chế quyền bằng cách gì?

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

- Chỉ có thể hạn chế quyền con người, quyền công dân bằng luật do Quốc hội ban hành. Như vậy, không thể hạn chế quyền con người, quyền công dân bằng những văn bản dưới luật như Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, quyết định, chỉ thị, Thông tư…

- Cơ sở, căn cứ để hạn chế quyền con người, quyền công dân là chỉ trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Những lý do này phải được các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội chỉ ra một cách rõ ràng, minh bạch. Trong trường hợp nào là vì lý do quốc phòng an ninh, trong trường hợp nào là vì lý do trật tự an toàn xã hội hoặc trong trường hợp nào là vì lý do đạo đức xã hội, sức khỏe cộng động hoặc vì tất cả các lý do trên.

Quy định tại khoản 2 Điêu 14 đã trở thành nguyên tắc, yêu cầu, tiêu chí trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật.

Trong quá trình xây dựng, thẩm tra, thẩm định, thảo luận, thông qua các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu của khoản 2 Điều 14 cần thường xuyên xem xét, kiểm tra. Các yêu cầu của khoản 2 Điều 14 đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật.

Nếu các yêu cầu của khoản 2 Điều 14 được tuân thủ trong hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật thì sự nghiệp bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở nước ta chắc chắn sẽ có những bước tiến bộ đáng kể.

4. Kết luận và kiến nghị:

Thứ nhất: việc khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đưa ra một số quy định có tính chất nguyên tắc về hạn chế quyền con người là phù hợp với pháp luật quốc tế về nhân quyền và thông lệ quốc tế về thể hiện quyền con người trong bản Hiến pháp.

Thứ hai, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã xác định căn cứ và phương thức hạn chế quyền, đó là chỉ trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và việc giới hạn quyền chỉ có thể bằng văn bản luật.

Thứ ba, khoản 2 Điều 14 chưa tính đến việc tạm đình chỉ thực hiện quyền con người trong những tình huống khẩn cấp và chưa có quy định về việc không được giới hạn quyền con người và tạm đình chỉ thực hiện đối với các quyền tuyệt đối của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào: đó là quyền sống, quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay nhục hình, quyền không bị bắt giữ làm nô lệ, nô dịch, quyền không bị tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền được suy đoán vô tội, quyền được thừa nhận tư cách thể nhân trước pháp luật và quyền tự do tư tưởng.

Thứ tư, để bảo đảm thực hiện các yêu cầu của khoản 2 Điều 14 cần nhận thức rằng, các quyền con người, ngoại trừ các quyền tuyệt đối như đã dẫn ra trên đây, có thể bị giới hạn/hạn chế trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Văn bản pháp luật đưa các giới hạn trong việc thực hiện quyền con người là văn bản luật do Quốc hội thông qua.

Do Hiến pháp chưa quy định về nguyên tắc tạm đình chỉ việc thực hiện quyền con người trong những tình trạng khẩn cấp nên trong các văn bản luật cần có những quy định về tạm đình chỉ thực hiện quyền con người trong những tình trạng khẩn cấp. Việc quy định trong văn bản luật vấn đề tạm đình chỉ thực hiện quyền con người trong những tình trạng khẩn cấp là hoàn toàn phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Thứ năm, hoạt động xây dựng pháp luật trong thời gian tới cần tuân thủ các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, trong đó có các quy định tại khoản 2 Điều 14. Đối với các văn bản đã ban hành cần được rà soát kỹ lưỡng. Nếu phát hiện ra có sự không phù hợp, trái với quy định Hiến pháp năm 2013, trong đó có quy định tại khoản 2 Điều 14 thì cần chỉnh sửa kịp thời để quyền con người được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ có hiệu quả ở nước Cộng hòa XHCNVN.

 

 

BẢO ĐẢM TÍNH HỢP HIẾN CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

                                                                                            TS. Lê Đinh Mùi

1. Đặt vấn đề

Quyền con người là những giá trị đã được thừa nhận chung, trên phạm vi toàn thế giới. Điều đó chứng tỏ rằng con người luôn gắn bó chặt chẽ với tự tồn tại và phát triển không chỉ của mỗi cá nhân con người, mà còn của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cộng đồng thế giới. Ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền con người trở thành vấn đề luôn được quan tâm của cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam với mục têu nhất quán tất cả vì tự do và hạnh phúc của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển và là chủ thể của sự phát triển; phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn liền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ để phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên tinh thần đó, các quyền con người đã được khẳng định rõ trong các bản Hiến pháp từ khi lập nước đến nay. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam 1946 mới chỉ gồm có 70 Điều, nhưng đã dành cho việc quy định các quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân đến 18 điều và được trình bày lặp tập trung tại một chương “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” và đặt trang trọng ở vị trí ưu tiên ngay tại chương II.

Hiến pháp 1959 là bước phát triển hơn nữa so với Hiến pháp 1946 với 21 điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân.

Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước Việt Nam thống nhất, kế thừa và phát huy tinh thần của ai Hiến pháp trước, với 29 điều quy định cụ thể về các quyền của công dân.

Hiến pháp Việt Nam năm 1992 là Hiến pháp của công cuộc đổi mới, đã khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân …(Điều 2); “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa va xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (Điều 50).

Đặc biệt Hiến pháp năm 2013 đã có những bước phát triển các quy định về quyền con người, quyền công dân. Có thể thấy lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam quyền con người được coi là quyền tự nhiên, vốn có, Nhà nước phải ghi nhận và bảo đảm thực hiện. So với các bản Hiến pháp trước có sự kế thừa, phát triển, đồng thời nhất quán những nội dung, tinh thần điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Việc tích cực triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 nói chung và những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân là một vấn đề có ý nghĩa khách quan, cấp bách giai đoạn hiện nay. Với ý nghĩa như vậy, bài viết này đề cập tới vấn đề bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam.

2. Yêu cầu bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân

Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 Điều. Trong đó, chương 2 về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân chiếm số lượng nhiều nhất (Điều 14 đến Điều 49), bên cạnh việc kế thừa các bản Hiến pháp trước đó về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận một số quyền gồm: quyền sống (Điều 19), các quyền về văn hóa (Điều 41), quyền xác định dân tộc, sử dụng  ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42).

Quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định tại Chương 2 có nhiều điểm mới về cơ cấu, cách viết và nội dung. Với yêu cầu tạo ra cơ chế hiến định vững chắc bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người còn có nhiều quy định khác của Hiến pháp, từ Lời nói đầu cho đến quy định của các chương khác của Hiến pháp liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Yêu cầu bảm đảm tính hợp hiến của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân bao gồm:

Thứ nhất, bảo đảm hiệu lực tối cao và hiệu lực trực tiếp của hiến pháp trong việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Điều này thể hiện các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải viện dẫn trực tiếp quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân làm căn cứ quy định cũng như tổ chức thực thi các quy định phát luật về quyền con người, quyền công dân. Hiệu lực trực tiếp của hiến pháp thể hiện ở quyền của người dân được viện dẫn các quy định hiến pháp, khởi kiện ra tòa án để bảo vệ các quyền hiến định, lợi ích chính đáng của mình, theo đó các cơ quan nhà nước không được từ chối xem xét với lý do chưa có quy định cụ thể hào các quy định tương ứng của hiến pháp.

Bảo đảm hiệu lực áp dụng trực tiếp không có nghĩa loại trừ, phủ nhận nhu cầu cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật khác các quy định, nguyên tắc về quyền con người, quyền công dân được cụ thể hóa để thực hiện trong cuộc sống, vừa phải có hiệu lực áp dụng trực tiếp. Vấn đề đặt ra là, không được lạm dụng nguyên tắc cụ thể hóa các quy định hiến pháp cũng như làm sai lệch bản chất các quy định hiến pháp. Nguyên tắc cơ bản trong việc cụ thể hóa hiến pháp về quyền con người, quyền côn dân và không trái với lời văn, tinh thần của hiến pháp, muốn vậy cần phải quy định cơ chế, thiết chế bảo vệ hiến pháp, cơ chế kiểm soát, phòng ngừa, xử lý những hành vi, quyết định vi hiến.

Bảo đảm hiệu lực trực tiếp của hiến pháp về quyền con người, quyền công dân thể hiện quy định của hiến pháp có tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội, hành vi xã hội, việc thực hiện chúng về nguyên tắc không cần đến các quy định bổ sung, cụ thể hóa bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành. Đồng thời, do tính chất của nhiều quy định hiến pháp về quyền con người, quyền công dân cần phải được cụ thể bảo đảm thực hiện theo đúng trình tự, quy trình, thủ tục luật định.

Thứ hai, bảo đảm việc quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được quy định bằng Luật theo đúng quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người và quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Việc xác định như vậy nhằm bảo đảm tránh sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước trong việc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo cách tư duy cũ là nhà nước quy định các quyền dưới dạng “ban phát”, “mở” ở hiến pháp nhưng lại tìm cách thu lại trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Thứ ba, ghi nhận và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân không chỉ được quy định trong chương II mà là nội dung xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Việc đưa ra các nội dung liên quan đến quyền con người, quyền công dân vào nhiều chương khác của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế hiến định bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cụ thể trong đó tại Điều 3 trong Chương I:Chế độ chính trị, đã ghi nhận quan điểm, chính sách của Nhà nước Việt Nam là công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Từ đây, đặt ra nghĩa vụ của tất cả mọi chủ thể ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Các quy định tại Chương III của Hiến pháp sửa đổi về chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục,  khoa học, công nghệ và môi  trường có vai trò rất quan trọng đối với thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đây chính là điều kiện để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

Cũng lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp trực tiếp quy định nhiệm vụ của Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân về bảo vệ quyền con người, quyền công dân, một nhiệm vụ hiến định. Việc Hiến địnhviệc kiểm soát quyền lực, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3 Điều 2) chính là tạo ra cơ chế ngăn ngừa chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, quan lieu, tham nhũng trong quá trình thực thi quyền lực. Quyền con người, quyền công dân chỉ được bảo đảm, bảo vệ có hiệu quả khi ngăn ngừa, kiểm soát được chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, quan lieu, tham nhũng.

Vì vậy đặt ra yêu cầu trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần xác định nguyên tắc bảo đảm con người, quyền công dân là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể hóa quyền con người, quyền công dân, các văn bản quy định về trình tự, thủ tục thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước trong tổ chức thực thi quyền con người, quyền công dân.

3. Giải pháp bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay.

Bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

- Đẩy mạnh công tác rà soát toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quyền con người, quyền công dân qua đó phát hiện kịp thời những quy định trái với Hiến pháp trong các văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương đến địa phương quy định về quyền con người, quyền công dân. Đề xuất yêu cầu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Thông qua công tác rà soát các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đình chỉ hoặc bãi bỏ ngay những văn bản pháp luật trái với Hiến pháp năm 2013. Theo đúng yêu cầu Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Những văn bản pháp luật hiện hành quy định về quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền con người, quyền công dân không trái với Hiến pháp năm 2013 đương nhiên vẫn còn hiệu lực nhưng được thực hiện phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc, giá trị và tinh thần mới của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh mới. Việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đó dưới ánh sáng thần linh pháp quyền của Hiến pháp năm 2013 chắc chắn sẽ tạo ra hiệu ứng mạnh, tích cực hơn và đạt hiệu quả, hiệu lực cao hơn.

- Sửa đổi, bổ sung ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực Hiến pháp quy định.

Trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội trong từng năm và cả nhiệm kỳ, chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ và các cơ quan khác ở Trung ương cần xác định lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Từ đó hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực. Theo dự kiến mà Ủy ban Thường vụ QH đã ban hành, và Chính phủ cũng căn cứ vào đó đã ban hành kế hoạch, có đến 28 đạo luật sắp tới cần được sửa đổi bổ sung, ban hành mới để cụ thể hóa trực tiếp những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân. Trong 28 văn bản đó, có 12 văn bản thuộc lĩnh vực quyền dân sự chính trị và 16 văn bản thuộc lĩnh vực quyền kinh tế, văn hóa xã hội của người dân. Hiện nay, tất cả đang được Chính phủ trình UBTVQH. Tới đây quốc hội sẽ thông qua chương trình xây dựng pháp luật của năm 2015. Theo Lãnh đạo Bộ Tư pháp, trong 5 định hướng sửa đổi Bộ luật hình sự thì đình hướng dầu tiên là bảo đảm quyền con người ví dụ không ai bị tra tấn, bảo đảm quyền tự bào chữa của công dân… Luật dan dự liên quan đến nhân than vì vậy khi sửa đổi sẽ quy định điều kiện thuận lợi để người dân tiện thực hiện các quyền nhân than. Luật hôn nhân gia định sẽ quy định rất nhiều quyền con người như quyền kết hôn, ly hôn…Ngoài ra các luật về tổ chức Tòa án, tổ chức Viện kiểm sát, luật trưng cầu dân ý đều chứa đựng các điều khoản liên quan đến quyền con người.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, tạo cơ sở thu hút nhân dân tham gia và đóng góp ý kiến về dự án luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Với ý nghĩa quan trọng về bảo đảm quyền con người, quyền công dân các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu kinh nghiệm trong tổ chức tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp vừa qua áp dụng cho việc thu hút và tổ chức cho nhân dân tham gia vào góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

- Đẩy mạnh thu hút sự tham gia của các chuyên gia pháp lý, chuyên gia hoạt động nhân quyền co am hiểu về lĩnh vực nhân quyền tham gia vào hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân.

- Công khai các ý kiến tham gia góp ý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân và tiếp thu, giải trình của cơ quan có thẩm quyền về góp ý của nhân dân, tổ chức, cơ quan đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân.

 

 

 

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua (có hiệu lực từ ngày 01/01/2014) có nhiều nội dung đổi mới, trong đó có các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với vai trò là đạo luật gốc, Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có mảng pháp luật rất lớn và quan trọng về quyền con người, quyền công dân.

Tham luận này tập trung trình bày những điểm mới cơ bản của Hiến pháp và yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Cụ thể như sau:

1. Những điểm mới của Hiến pháp về quyền con người, quyền cơ bản của công dân

1.1 Hiến pháp lần đầu tiên ghi nhận các nguyên tắc cơ bản trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Với mục tiêu phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo tinh thần văn kiện của Đảng, Hiến pháp đã quy định “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14). Đồng thời, Hiến pháp cũng khẳng định rõ quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế bằng luật và chỉ trong 4 trường hợp cần thiết là: vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia; vì trật tự, an toàn xã hội; vì đạo đức xã hội và vì sức khỏe của cộng đồng (khoản 2 Điều 14)

1.2. Hiến pháp thay đổi cách tiếp cận và tư duy khi quy định về các quyền con người, quyền công dân theo hướng: đây không phải là những quyền của công dân mà Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực thi.

Ví dụ: thay vì quy định “Công dân có quyền…được thông tin” như Điều 69 Hiến pháp năm 1992 thì Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định “Công dân có quyền…tiếp cận thông tin”.

1.3. Hiến pháp cũng phân biệt rõ những quyền nào là quyền con người và những quyền nào là quyền công dân:

Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Trong 26 điều quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, thì có 15 điều về quyền con người và được xem là các quyền tự nhiên của con người có được từ khi sinh ra, ví dụ: quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về than thể, quyền được sống…; chỉ có 11 điều về quyền cơ bản của công dân, tức là gắn với việc phải có quốc tịch Việt Nam.

Một số quy định về quyền được thay đổi cho phù hợp. Ví dụ: nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền công dân, thì nay Hiến pháp năm 2014 quy định đây là quyền con người (Điều 20, 21…).

1.4. Hiến pháp năm 2013 làm sâu sắc hơn những quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992:

Ví dụ: V

Về quyền sống, lần đầu tiên Hiến pháp quy định: “Mọi người đều có quyền sống, tính mạng con người được pháp luật bảo hộ, và việc đi tính mạng của con người chỉ bằng luật định” (Điều 19);

Về quyền sở hữu: Hiến pháp trước đây quy định sở hữu hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo hộ, còn bây giờ Hiến pháp quy định sâu sắc hơn theo hướng sở hữu tư nhân được bảo hộ (khoản 2 Điều 32).

Về quyền tự do kinh doanh, Hiến pháp chuyển từ nguyên tắc mọi người được kinh doanh theo quy định của pháp luật sang nguyên tắc được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33);

Trong lĩnh vực tư pháp, Hiến pháp mở rộng phạm vi những người được bảo đảm quyền bào chữa: từ chỗ chỉ có bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 1992,  thì nay bao gồm cả người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra (theo khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp cũng quy định rõ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không bị tra tấn , bạo lực, truy bức, nhục hình  hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể con người (Điều 20). Hiến pháp quy định một người không có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án kết tội người đó, nay Hiến pháp quy định thêm một điều kiện rất quan trọng đó là việc buộc tội đó phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định thì mới có bản án

Một số quyền được củng cố và phát triển hơn như quyền bảo vệ bí mật đời tư (Điều 21), quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28)…

1.5. Hiến pháp ghi nhận thêm các quyền mới như quyền sống (Điều 19), quyền được sống trong môi trường lành mạnh (Điều 43), quyền được bảo đảm ban sinh xã hội (Điều 34), quyền được hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42)…

Với những điểm mới, tiến bộ nêu trên của Hiến pháp năm 2013 đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quyền con người, quyền cơ bản của công dân để tạo hành lang pháp lý đầy đủ trong việc cụ thể hóa và thực hiện các quyền, từng bước tiếp cận với những chuẩn mực quốc tế; khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành các quyền cụ thể; đặc biệt là cần bảo đảm các  nguyên tắc về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân được quy định tại Hiến pháp (Điều 14).

2. Một số kết quả rà soát sơ bộ về quyền con người, quyền công dân

Qua rà soát sơ bộ các luật, pháp lệnh cho thấy, các quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân hiện nay chưa đầy đủ, có những quyền chưa có luật điều chỉnh, hoặc có luật điều chỉnh nhưng chưa bảo đảm đầy đủ cơ chế để người dân thực hiện quyền của mình; một số luật, pháp lệnh còn có quy định trái Hiến pháp; có luật quy định về hạn chế quyền nhưng không đúng trong các trường hợp cần thiết và vì sức khỏe của cộng đồng; có một số quy định về hạn chế quyền đang được quy định ở văn bản dưới luật; một số luật, pháp lệnh hiện hành mâu thuẫn hoặc chưa được hiểu thống nhất.

Ví dụ: Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định “người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.

Điều 32 áp dụng chung đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm giam mà không giới hạn tính chất của tội phạm. Tuy nhiên, Điều 58 Bộ luật TTHS lại quy định “Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụn từ khi kết thúc điều tra”. Như vậy, trong trường hợp này, quyền được có người bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam không được bảo đảm.

Ví dụ 2: Bộ luật Hình sự còn nhiều quy định chưa phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường; ngoài ra còn có nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn Bộ luật Hình sự có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Hiện nay, các cơ quan đang tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật (với số lượng văn bản cần rà soát rất lớn). Việc rà soát  các văn bản này cần kỹ lưỡng, thận trọng, tránh bỏ sót, nhất là phát hiện ra những văn bản dưới luật có chứa quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân với nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp) đề kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Hiến pháp.

3. Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền cơ bản của công dân

3.1. Về lộ trình xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quyền con ngời, quyền công dân:

Cần bảo đảm ính ưu tiên việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các đạo luật liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm của Quốc hội (tập trung chủ yếu vào năm 2014-2016) theo quy định tại Nghị quyết số 718 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Theo dự kiến, có 28 luật về quyền con người, quyền công dân được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới trong đó, hầu hết các luật này đều được ưu tiên xây dựng, trình Quốc hội trong các năm 2015 và 2016 (ví dụ Bộ luật Hình sự sửa đổi, Bộ luật Dân dự sửa đổi, Luật chứng thực, Luật hộ tịch, Luật Trợ giúp pháp lý sửa đổi, Luật báo chí sửa đổi, Luật an toàn thông tin, Luật tiếp cận thông tin, Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật căn cước công dân…).

Vì vậy, với sức ép về số lượng và tiến độ xây dựng các văn bản này, các cơ quan cần tập trung đầu tư nguồn lực phù hợp, thích đáng cho công tác xây dựng pháp luật.

3.2. Về hướng hoàn thiện nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân

* Về yêu cầu chung:

Về hình thức, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về con người, quyền côn dân nói riêng cần được hoàn thiện theo hướng bảo đảm minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp cận, hạn chế tối đa mâu thuẫn, chồng chéo, cồng kềnh, phức tạp.

Về nội dung, các văn bản pháp luật cần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính hợp lý, khả thi; bảo đảm công bằng, minh bạch, bình đẳng, không phân biệt đối xử theo tinh thần của Hiến pháp, để pháp luật không chỉ là công cụ của Nhà nước mà cũng là công cụ của người dân để bảo đảm các quyền và lợi ích của họ.

Hơn nữa, để bảo đảm các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền theo tinh thần của Hiến pháp mới thì pháp luật phải bảo đảm an toàn pháp lý cho người dân và bảo đảm sự tin cậy của người dân đối với pháp luật. Pháp luật phải có tính tiên liệu, ổn định trong khoảng thời gian đủ dài và bảo đảm tính nhất quán, tính thống nhất, đồng bộ. Trong trường hợp có sự thay đổi về pháp luật thì cần có các quy định chuyển tiếp nhằm bảo vệ sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.

Với tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đề cao dân và chủ quyền nhân dân được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của của công dân nói riêng cần được hoàn thiện hướng phát huy dân chủ, bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền của người dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, quyền của người dân tham gia vào quá trình khởi xướng, hoạch định chính sách, xây dựng, thực thi và bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, để bảo đảm các quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thì pháp luật cũng cần được hoàn thiện theo hướng tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trước Nhân dân. Minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan công quyền gắn với tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan là một yêu cầu cấp thiết để bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền của người dân trong tham gia quản lý đất nước và xã hội.

* Về phương án xử lý đối với các vấn đề trong quá trình rà soát, hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân:

- Trong trường hợp chưa có luật điều chỉnh (ví dụ: quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền trưng cầu dân ý…)

Về nguyên tắc, Hiến pháp chỉ quy định những nguyên tắc chung cho việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Để bảo đảm thực thi các quyền này thì đòi hỏi phải có các luật và văn bản dưới luật quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền. Do đó, sau khi Hiến pháp có hiệu lực, để bảo đảm sự an toàn pháp ý và sự tin cậy của người dân đối với pháp luật khi thực hiện các quyền của mình, thì đối với những quyền mà đã được Hiến pháp ghi nhận nhưng chưa có luật quy định cụ thể thì các Bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp để trình Chính phủ đề xuất Quốc hội cần sớm ban hành các luật liên quan.

Một số quyền quan trọng của người dân cần được sớm ban hành luật để bảo đảm thực thi

- Trong trường hợp luật, pháp lệnh có quy định trái/không phù hợp với Hiến pháp.

Cần rà soát tổng thể các đạo luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với tình thần của Hiến pháp.

Các luật về quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2014, 2015 thì các cơ quan được giao cần khẩn trương xây dựng, trình Quốc hội sớm ban hành.

- Trong trường hợp các quy định về hạn chế quyền đang quy định tại văn bản dưới luật

+ Đối với văn bản dưới luật đang có quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân mà xét thấy việc hạn chế quyền này là cần thiết để bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm lợi ích của cộng đồng và đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước thì cần nâng lên ở tầm luật bằng việc đưa các quy định hạn chế quyền này vào các luật có liên quan một cách phù hợp.

+ Đối với các quy định về hạn chế quyền mà xét thấy không còn phù hợp với điều kiện thực tế và nhu cầu quản lý Nhà nước và xã hội thì cân nhắc, đề xuất bãi bỏ các quy định này. Trong trường hợp cần bãi bỏ nhiều quy định về hạn chế quyền trong nhiều văn bản khác nhau thì có thể sử dụng hình thức một văn bản sửa nhiều văn bản để bảo đảm nhanh gọn đơn giản, giảm chi phí xây dựng văn bản , đồng thời cũng bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật.

- Trong trường hợp luật, pháp lệnh hiện hành mẫu thuẫn hoặc chưa được hiểu thống nhất (chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn cụ thể), còn có cách hiểu khác nhau liên quan đến nguyên tắc và thực hiện các quyền cụ thể thì trong quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan kịp thời báo cáo để Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích theo thẩm quyền.

* Một số lưu ý khác trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung và ý nghĩa của Hiến pháp, đặc biệt là các quy đinh của Hiến pháp liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm sự tham gia của người dân, tổ chức và các đối tượng có liên quan trong quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, có thể thu hút sự tham gia của các chuyên gia, cán bộ pháp luật, đặc biệt là những người có kinh nghiệm trong quá trình tham gia tổng kết, nghiên cứu, xây dựng Hiến pháp năm 2013, để bảo đảm thể hiện đúng và đầy đủ tinh thần và nội dung của Hiến pháp trong các dự án luật, pháp lệnh.

- Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của Hiến pháp; phát huy vai trò của các tổ chức pháp chế của các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng góp ý, thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp; tiếp tục phát huy cơ chế họp hội đồng thẩm định, tư vấn thẩm định hiện nay nhằm phá vỡ tính cục bộ va tính pháp lý thuần túy trong các văn bản thẩm định.

Riêng đối với các văn bản liên quan đến quyền con người, quyền công dân thì khi thẩm định cần lưu ý: các văn bản quy định điều kiện hạn chế quyền cần bảo đảm đúng tinh thần, quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp. Đối với các đạo luật quy định về bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân thì cần phải quy định thật cụ thể, rõ ràng về điều kiện, trình tự, thủ tục và các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền, hạn chế việc ủy quyền để bảo đảm tính nhất quán, tính thống nhất của pháp luật.

Bên cạnh đó, cũng cần phát huy vai trò của Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp do Thủ tướng Chính phủ thành lập (theo Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 11/4/2014) để góp phần bảo đảm cụ thể hóa thống nhất nội dung, tình thần và lời văn của Hiến pháp trong các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp.

Tóm lại, Hiến pháp năm 2013 đã mở ra một không gian rộng lớn trong việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, để Hiến pháp đi vào cuộc sống thì cần phải có một hệ thống văn bản luật và dưới luật thống nhất, đồng bộ, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp nói chung và các quy định của Hiến pháp liên quan đến quyền con người, quyền công dân nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng, nặng nề đặt ra đối với các cơ quan nhà nước.

 

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP

VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

                                               Th.sĩ- Luật gia, CV cao cấp Lê Trọng Vinh

                                                Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Nội vụ

 

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

1. Cơ sở chính trị:

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta là một trong những quyền cơ bản của con người, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm ý thức về tầm quan trọng của vấn đề này trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt, kế thừa, phát triển quan điểm ton trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế, chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân thực hành quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.

Cương lĩnh, quan điểm của Đảng, trong đó có bảo đảm quyền tự do của con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của nhân dân được nêu trong Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về công tác tôn giáo” đã xác định rõ nội dung, giải pháp bảo đảm quyền tự do TN, TG của nhân dân. Đảng ta xác định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về TN, TG phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng TN, TG để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tông giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.

2. Cơ sở pháp lý

- Pháp luật nói chung và việc chấp hành pháp luật là quy định bắt buộc đối với mọi tổ chức, công dân, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội; bất kỳ ai vi phạm cũng đều bị xử lý theo pháp luật. Thực tiễn trên thế giới cho thấy: không có hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nào đứng ngoài pháp luật nhà nước.

- Hơn nửa thế kỷ qua, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo được xây dựng trên cơ sở nhận thức và giải quyết các vấn đề tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ  những ngày đầu thành lập nước, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vạch ra những chính sách đúng đắn về tôn giáo. Trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họ đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ “thực dân và phong kiến thực hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố “Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.

- Quan điểm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được củng cố, phát triển và được thể hiện xuyên suốt qua các Hiến pháp cũng như các văn bản khác của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn chung các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta đã và đang diễn ra bình thường tuân thủ pháp luật, đóng góp tích cực trong việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và công cuộc đổi mới hiện nay.

- Quan điểm dó của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được củng cố, phát triển và được thể hiện xuyên suốt qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) cũng như các văn bản khác của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn chung các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta đã và đang diễn ra bình thường tuân thủ pháp luật, đóng góp tích cực trong việc củng cố khối đại đoàn keet toàn dân tộc và công cuộc đổi mới hiện nay.

- Ở Việt Nam, quyền tự do TN, TG của công dân được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật. Đó là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền quản lý kinh tế, xã hội, văn hóa, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội; là phương tiện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm công bằng xã hội. Mỗi lần sửa đổi, bổ sung và ban hành Hiến pháp, Nhà nước ra luôn kế thưa và phát triển đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trở thành một trong những quyền cơ bản của con người. Đặc biệt, trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp sửa đổi năm 2013, có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài. Hiến pháp 2013, quy định bao quát các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Theo đó, điểm đổi mới quan trọng của Hiến pháp 2013 là thể hiện quan điểm nhất quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người, đó là quyền tự do tín ngưỡng được trình bày mở rộng hơn, với các chế định toàn diện và sâu sắc theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho tín đồ các tôn giáo và tổ chức tông giáo hoạt động một cách lành mạnh và công bằng nhất.

Hiến pháp 2013, đã khẳng định rằng quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm bảo vệ quyền con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể Điều 14 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Thay cụm từ “mọi công dân” thành “mọi người”, theo đó Điều 16 Hiến pháp nêu rõ: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. và bổ sung thêm quy định: “Mọi người có quyền sống.Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Như vậy, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là một bước tiến quan trọng, một sự kế thừa và phát triển trong thời kỳ đất nước ta “Đổi mới và hội nhập sâu” với thế giới. Theo đó, về từ ngữ “công dân”được thay bằng “mọi người”, thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là một quyền cơ bản của công dân như các Hiến pháp trước đây ghi nhận, mà quan trọng hơn quyền đó còn là một trong những quyền cơ bản của con người. Bởi vì quyền tin theo một tín ngưỡng hoặc một tôn giáo nào đó không lệ thuộc vào người đó có quyền công dân hay không, tin theo tôn giáo là một hiện tượng thuộc về tư tưởng, tâm linh. Hơn nữa, xác định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một phạm trù thuộc về quyền con người, đã được liên hiệp quốc xác dịnh trong Tuyên ngôn về các quyền dân sự, chính trị 1946. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam 2013 đã thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Nhìn lại hệ thống pháp luật liên quan đến tôn giáo của nước ta sẽ thấy, có sự phát triển không ngừng và ngày càng hoàn thiện. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (năm 1945) đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo và hoạt động TN, TG; các văn bản đó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Nổi bật là Pháp lệnh TN, TG được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004; đó là dấu mốc quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện TN, TG. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã ban hành nhiều luật liên quan trực tiếp đến bảo đảm quyền con người, quyền tự do TN, TG như: Luật Thi hành án, Luật Tố cáo, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật.

Một số căn cứ để hoàn thiện pháp luật về TN, TG:

+ Khoản 2 Điều 14; Điều 24 và khoản 5 Điều 70 Hiến pháp 2013.

+ Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Quyết định 251/QĐ-TTg ngày 13/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.

+ Công văn số 2161/VPCP-PL ngày 01/4/2014 của Văn phòng Chíh phủ  thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ kiến nghị Quốc hội đưa dự án Luật Tín ngưỡng, tôn giáo bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2014.

3. Bối cảnh, thực trạng đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về Tín ngưỡng, TG

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa Xi thông qua ngày 18/6/2004; có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2004. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 8/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh đã thể chế được những quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác tôn giáo tại Nghị quyết số 25/NQQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là một dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay.

Qua thực tiễn 09 năm triển khai thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và thể chế quy định của Hiến pháp 2013 cho thấy cần phải xây dựng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;

Thứ nhất, Hiến pháp 2013 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 đã có nhiều sự thay đổi quy định về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người

Thứ  hai, sự vận động, phát triển của xã hội và quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn giáo trong xu thế toàn hóa, những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động tôn giáo mà pháp lệnh 2004 chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh nhưng không còn nhiều bất cập, một số quy phạm chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013 và tình hình thực tiễn.

II. NHỮNG NỘI DUNG CẦN HOÀN THIỆN LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI

1. Về hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng và hoạt động lễ hội tín ngưỡng

Hoàn thiện các quy định về nội dung, chương trình hoạt động tín ngưỡng; lễ hội tín ngưỡng; thẩm quyền, trách nhiệm quản lý hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở tín ngưỡng và người tham gia hoạt động tín ngưỡng. Những nội dung hoạt động tín ngưỡng phải đăng ký và được chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được hoạt động; những nội dung hoạt động tín ngưỡng chỉ cần thông báo hoặc đăng ký chương tình hoạt động tín ngưỡng hàng năm.

2. Về tổ chức tôn giáo

Hoàn thiện các quy định về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo; đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền quản lý các hoạt động này; phạm vi hoạt động tôn giáo của tổ chức được cấp đăng ký hoạt động và công nhận tổ chức tôn giáo; về điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo, trình tự, thủ tục, thẩm quyền; về điều kiện thành lập trường, giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo, trình tự, thủ tục, trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết; về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức sắc trong tôn giáo.

3. Về hoạt động tôn giáo

Quy định về đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm; hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đăng ký, đăng ký người vào tu; hội nghị đại hội của tổ chức tôn giáo; tổ chức cuộc lễ, giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo; hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành tại các cơ sở tôn giáo đã được xếp hạnh; hoạt động cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giao; tổ chức quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; về hoạt động tôn giáo quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo Việt Nam.

4. Về sinh hoạt và hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài tại Việt Nam

Các quy định về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài, hoạt động tôn giáo của chức sắc,nhà tu hành là người nước ngoài; việc mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và các đồ dùng thờ cúng; việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo của người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác.

5. Các giải pháp để thực hiện chính sách đảm bảo hoàn thiện và thực hiện pháp luật về TNTG

a) Ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Giáo dục, Luật Khám, chữa bệnh, Luật Hoạt động chữ thập đỏ, Luật Đất đai,Luật Xây dựng, pháp luật về bảo trợ xã hội và các đạo luật khác để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, là cơ sở pháp lý để ổn định và củng cố tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong xu thế toàn cầu hóa, đạt được những vấn đề cơ bản Về quyền con người, về kinh tế, an sinh xã hội, ngoại giao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

b) Thực hiện đồng bộ với các chương trình cải cách hành chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và các hoạt động từ thiện nhân đạo, vì con người và phát triển đất nước.

c) Tăng cường nhận thức cho cán bộ, công chứ thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền pháp luật về TNTG

d) Tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và của tổ chức, cá nhân về thực hiện pháp luật về TNTG.

Trên đây là một số vấn đề và nội dung xin trao đổi  về “Hoàn thiện pháp luật về TNTG để thi hành Hiến pháp năm 2013 về quyền con người”.

Xin trân trọng cảm ơn./.


 

 

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
  
Khách online:114945
Lượt truy cập: 167.976.022