Từ năm 1996 trở lại đây, trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, nhiều công trình giao thông đã được triển khai. Trong 10 năm (từ 1996 đến 2005) Ngành GTVT đã tiến hành cải tạo nâng cấp và làm mới hơn 16.000 km đường bộ; 1.400 km đường sắt; hơn 130.000 md cầu đường bộ; 11.000 m dài cầu đường sắt. Nâng cấp và xây dựng mới 5.400 m dài bến cảng; nạo vét 4,8 triệu m3 luồng lạch.
Về đường bộ, Ngành GTVT đã hoàn thành cơ bản việc nâng cấp toàn tuyến trục dọc “xương sống” của đất nước là Quốc lộ 1 từ Lạng Sơn đến Cần Thơ, trong đó nổi lên 02 công trình qui mô và hiện đại là Hầm đường bộ đèo Hải Vân và cầu Mỹ Thuận. Cùng với trục dọc này, một trục dọc thứ hai cũng đã hình thành. Đó là đường Hồ Chí Minh đã hoàn tất giai đoạn 1 (Đoạn từ Hoà Lạc đến Ngọc Hồi). Đường Hồ Chí Minh sẽ nối kết hơn 100 tuyến đường ngang trong đó có các trục hành lang Đông - Tây, nối liền với QL 1A ở phía Đông, gắn với hệ thống cảng biển nước sâu dọc bờ biển miền Trung, hệ thống các sân bay trên cao nguyên... hình thành một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh từ Bắc vào Nam và liên thông với các nước láng giềng.
Ngoài 02 trục dọc trên, Ngành GTVT đã hoàn thành các tuyến quốc lộ chính yếu nối đến các cảng biển và cửa khẩu quốc tế như QL5, QL18, QL10, QL22, QL51, QL14B... Đồng thời, đã và đang nâng cấp các tuyến quốc lộ hướng tâm và vành đai phía Bắc, phía Nam; các tuyến quốc lộ ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên các tuyến đường mới, hàng loạt các cầu đã được xây dựng như: cầu Kiền, cầu Tô Châu, Tạ Khoa, Bến Lức, cầu Tuần và tuyến tránh thành phố Huế, cầu Tân An và tuyến tránh Tân An, cầu Yên Lệnh; cầu Tuyên Nhơn (tuyến N2); các cầu thuộc dự án cầu QL1: Đà Rằng, Diêu Trì, Tam Giang; Sông Vệ, Câu Lâu, Trà Khúc, Cây Bứa, Bồng Sơn và Bàn Thạch; cầu Sông Rộ (dự án Đường HCM về quê Bác); cầu Gò Chai (dự án Đường xuyên Á) cầu Hoà Mạc, cầu Kênh Tiêu, cầu Hà Nha, cầu Giát (QL38)... Đặc biệt, hiện nay công trình cầu Cần Thơ đã được khánh thành và đưa vào sử dụng, đánh dấu sự hoàn tất các cầu trên Quốc lộ 1 - huyết mạch giao thông của đất nước.
Các thợ lái đầu máy "Đổi mới" thực hiện kỷ cương
an toàn chạy tàu để phục vụ vận tải Tết Quý Mùi 2003
Bên cạnh các dự án sử dụng vốn NSNN và tài trợ quốc tế, trong giai đoạn vừa qua đã nổi lên một số dự án BOT lần đầu tiên đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như BOT Đèo Ngang; BOT An Sương - An Lạc. Đây là tín hiệu rất đáng mừng về khả năng huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Về đường sắt, Ngành GTVT đã từng bước nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, nâng cao an toàn và rút ngắn đáng kể thời gian chạy tàu. Các cầu và ga trên đường sắt Thống Nhất đã được cải tạo và nâng cấp.
Về đường sông, đã hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (TP HCM - Cà Mau, TP HCM - Kiên Lương); đồng thời từng bước nâng cấp các tuyến sông chính yếu khác.
Về hàng hải, Ngành GTVT trong giai đoạn vừa qua đã hoàn thành nâng cấp giai đoạn 1 các cảng biển tổng hợp quốc gia chủ yếu như: Cảng Cái Lân, Cảng Hải Phòng, Cảng Cửa Lò, Cảng Vũng Áng, Cảng Tiên Sa, Cảng Quy Nhơn, Cảng Nha Trang, Cảng Sài Gòn, Cảng Cần Thơ và hoàn thành nâng cấp một số cảng địa phương cần thiết đáp ứng lượng hàng hoá thông qua.
Tàu Tây Sơn
Về hàng không, tất cả các cảng hàng không trên khắp cả nước đều được nâng cấp một bước, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại bằng máy bay đang ngày càng gia tăng. Một số công trình quan trọng có thể kể ra như: Nhà ga T1 và đường cất hạ cánh 1B Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; đường cất hạ cánh 25L tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; nhà ga, sân đỗ, đường hạ cất cánh sân bay Vinh, nhà ga sân bay Phú Quốc ; nhà ga hành khách Cảng hàng không Phù Cát (Bình Định), hoàn thành nâng cấp Cảng hàng không Vinh, đưa vào sử dụng Cảng hàng không Côn Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu); khánh thành nhà ga hành khách và đài kiểm soát không lưu Cảng hàng không Điện Biên Phủ; Cảng hàng không Chu Lai...
Đối với hệ thống giao thông địa phương, đến nay hệ thống đường tỉnh đã được mở mang, nâng cấp một bước, tạo được sự kết nối tốt hơn với hệ thống quốc lộ. Giao thông nông thôn phát triển mạnh đã làm giảm số xã chưa có đường đến trung tâm từ 663 xã năm 1997 xuống còn 219 xã năm 2004. Tuy nhiên đến nay, do có sự chia tách xã và nhiều tuyến đường giao thông nông thôn do không được quản lý, bảo trì và thiên tai phá hoại bị hư hỏng, xuống cấp nên số lượng xã chưa có đường về trung tâm tăng lên gần 400 xã.
Cảng Hàng không quốc tế Tây Sơn Nhất - 2004
Trong lĩnh vực vận tải, các dịch vụ vận tải đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Chưa bao giờ người dân lại đi lại dễ dàng và thuận tiện như hiện nay nay với nhiều tuyến vận tải đường bộ đi khắp nơi, tới mọi “hang cùng, ngõ hẻm” với nhiều loại ô tô hiện đại, phục vụ nhiều tiện nghi như điều hoà, tivi... Tàu hoả Bắc - Nam ngày càng nhiều chuyến hơn. Hàng không Việt Nam ngày một có thêm nhiều máy bay đời mới, hiện đại như Boeing B767, B777, Airbus A321... đưa vào khai thác nhiều tuyến bay mới cả trong nước và quốc tế. Các đội tàu biển, tàu sông của Việt Nam cũng vươn tới nhiều điểm đến trên toàn thế giới.
Theo số liệu thống kê thì trong vòng 10 năm qua, hoạt động vận tải bình quân tăng 8,6%/năm về tấn hàng hoá; 9,9% về T.Km; 8% về hành khách và 9,6% về HK.Km cao hơn chỉ tiêu Đại hội IX đặt ra là 9 - 10% T.Km và 5 - 6% HK.Km. Tốc độ tăng trưởng nói trên có thể nói là khá cao so với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế chung 7,5% mà Đảng và Chính phủ đề ra. Điều này cũng có nghĩa là Ngành GTVT đã và đang đóng góp rất tích cực vào tốc độ tăng trưởng của kinh tế đất nước; giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra.
Chất lượng các dịch vụ vận tải cũng ngày càng được nâng cao với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Vận tải container có bước phát triển mạnh; vận tải đa phương thức đang từng bước được hình thành. Vận tải hành khách công cộng tại các thành phố, đặc biệt là Hà Nội và TP HCM phát triển mạnh, được xã hội chấp nhận, góp phần quan trọng làm giảm ùn tắc giao thông đô thị.
Ngoài việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, Ngành GTVT còn có những bước tiến rất nhanh trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí, đặc biệt là ngành đóng tàu, sản xuất ô tô. Nhiều sản phẩm của các đơn vị công nghiệp trong Ngành GTVT đã nhận được sự tín nhiệm của khách hàng cả trong nước và quốc tế. Thời gian qua, một số sản phẩm xe buýt của VINAMOTOR, tàu thuỷ của Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy đã xuất khẩu được ra nước ngoài, đánh dấu một bước phát triển quan trọng và có ý nghĩa của ngành công nghiệp cơ khí GTVT.
Về công tác an toàn giao thông, trong những năm gần đây, Ngành GTVT đã thực thi một cách mạnh mẽ, quyết liệt và đồng bộ nhiều chính sách nhằm góp phần cùng toàn xã hội thực hiện mục tiêu “3 giảm” về TNGT mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Đó là giảm về số vụ tai nạn, giảm số người chết và giảm số người bị thương. Để làm được điều này, Ngành GTVT đã tập trung cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông, xoá bỏ các “điểm đen” về TNGT; kiểm soát chặt chẽ phương tiện, từng bước loại bỏ các phương tiện cũ nát; tăng cường chất lượng công tác đào tạo, sát hạch và cấp phép người lái… Theo số liệu thống kê thì liên tục trong 3 năm qua, số vụ TNGT, số người chết và số người bị thương tính trên 10.000 phương tiện đều giảm. Đây là kết quả rất đáng mừng, thể hiện sự nỗ lực không chỉ của Ngành GTVT mà còn của các địa phương và toàn bộ hệ thống chính trị.
Về công tác quản lý Nhà nước của Bộ GTVT, từ năm 2001 trở lại đây, công tác xây dựng thể chế, văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực GTVT đã có bước chuyển biến quan trọng. Hàng loạt bộ luật và văn bản quy phạm pháp luật đã được ra đời. Năm 2001 Quốc hội ban hành Luật Giao thông đường bộ. Năm 2004 là Luật Giao thông đường thuỷ nội địa. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua thêm 02 luật nữa là Luật Đường sắt và Bộ luật Hàng hải (sửa đổi). Cuối năm 2005, Quốc hội đã xem xét và thông qua Luật Hàng không dân dụng (sửa đổi). Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Ngành GTVT đã có đủ 05 bộ luật điều chỉnh 05 lĩnh vực giao thông của Ngành: đường bộ, đường sông, đường sắt, hàng hải và hàng không.
Về an toàn giao thông, Bộ Giao thông vận tải đã tập trung xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tập trung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự an toàn giao thông. Việc thực hiện quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người tham gia giao thông bằng mô tô, xe gắn máy được toàn dân hưởng ứng, chấp hành nghiêm túc trên phạm vi toàn quốc và được dư luận quốc tế đánh giá cao. Đây là thành công của việc triển khai đồng bộ, quyết liệt công tác tuyên truyền giáo dục và kiểm tra, xử lý của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Trong điều kiện số lựợng phương tiện giao thông bùng phát quá nhanh, trong khi cơ sở hạ tầng giáo thông phát triển chậm, việc kiềm chế và giảm được tốc độ gia tăng tai nạn giao thông các năm gần đây là một thành công đáng khích lệ. Bộ Giao thông vận tải đã và đang tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong Ngành tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động của thanh tra chuyên ngành, đồng thời phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự phối kết hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa các ban, ngành và đoàn thể trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của xã hội, của người tham gia giao thông về văn hóa giao thông, ý thức chấp hành pháp luật an toàn giao thông. Nhờ đó, tai nạn giao thông tiếp tục giảm cả ba tiêu chí; an ninh hàng không cơ bản được bảo đảm.
Từ năm 2006 đến nay, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Ban Cán sự và Đảng ủy cơ quan Bộ đã tập trung nhiều biện pháp để xây dựng Đảng, hoàn thiện bộ máy điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước. Đặc biệt Đảng bộ đã có nhiều biện pháp cụ thể thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ban Cán sự Đảng bộ đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho các thành viên Ban chỉ đạo để chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động; đã triển khai nghiêm túc và có hiệu quả tại các cơ sở đảng các cấp, Ban Cán sự cũng đã ban hành chương trình và kế hoạch cụ thể thực hiện Cuộc vận động cho từng năm. Qua 3 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực của ngành Giao thông vận tải.
Trong thời kỳ đất nước hội nhập ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới, công tác đối ngoại giao thông vận tải cũng được tăng cường, đạt nhiều thành tựu. Ngành đã tích cực triển khai trên diện rộng các hoạt động đối ngoại cả song phương lẫn đa phương trong các lĩnh vực hàng không, hàng hải, đường sắt, đường sông và đường bộ. Quan hệ song phương với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc đã được đẩy mạnh. Giao thông vận tải Việt Nam đã đạt được thoả thuận với các nước láng giềng về hầu hết các vấn đề kết nối giao thông vận tải, tạo thuận lợi cho vận tải giữa các nước, đề xuất phối hợp với các Bộ, ngành những biện pháp phù hợp đảm bảo an ninh biên giới lãnh thổ, tạo tiền đề xây dựng vành đai biên giới hoà bình, hợp tác và cùng phát triển với các nước xung quanh, góp phần củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tăng cường sự tin cậy với các nước láng giềng.
Ngành cũng đã quan tâm thúc đẩy quan hệ với các đối tác quan trọng như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và các nước trong Liên minh châu Âu... thông qua việc hợp tác triển khai các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trong nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực giao thông vận tải. Trong mối quan hệ với các tổ chức quốc tế và các diễn đàn đa phương như UNESCAP, ICAO, IMO, IRF và các tổ chức tài chính như WB, ADB, JBIC, Bộ Giao thông vận tải đã đẩy mạnh hợp tác và cùng với các cơ quan hữu quan triển khai một số hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực cũng như xúc tiến và thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng giao thông vận tải bằng nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính này.
Những năm qua, Bộ Giao thông vận tải đã được Chính phủ giao chủ trì đàm phán và đã ký kết được một số hiệp định, nghị định thư về vận tải biển, vận tải đường bộ, hàng không như giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, giữa Chính phủ Việt Nam và các nước láng giềng khác. Song song với công tác đàm phán ký hiệp định, Bộ Giao thông vận tải đặc biệt chú trọng đến việc thực hiện các cam kết về mở cửa dịch vụ giao thông vận tải cũng như triển khai các Hiệp định song phương và đa phương về tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hoá qua lại biên giới như Hiệp định GMS về Tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hoá giữa 6 nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng và Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi cho hàng quá cảnh...
Công tác đào tạo của các trường trong Ngành cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận: chất lượng đào tạo được đảm bảo và không ngừng nâng cao; cơ sở vật chất của các trường được củng cố và ngày càng hiện đại; ở mọi hệ đào tạo đều xuất hiện những nhân tố mới; nhiều tập thể được Đảng, Nhà nước và Bộ tặng những phần thưởng cao quý. Hệ thống mạng lưới các trường từ dạy nghề đến đại học đã được sắp xếp phù hợp với quy hoạch phát triển về giáo dục và đào tạo của đất nước. Các trường đã tích cực, chủ động thực hiện công tác đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội và của Ngành; sử dụng các giáo cụ mới để thực hiện phương châm: “Học đi đôi với hành”; áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy tiên tiến vào quá trình dạy và học; nâng cao tính thực tiễn trong chương trình đào tạo.
Y tế giao thông vận tải với hệ thống các bệnh viện, phòng khám và các trung tâm điều dưỡng - phục hồi chức năng - bệnh nghề nghiệp, các trung tâm y tế chuyên ngành; hàng năm Y tế giao thông vận tải thực hiện khám chữa bệnh cho hàng chục ngàn lượt bệnh nhân là cán bộ, công nhân của Ngành và nhân dân trong khu vực, đã và đang trở thành những địa điểm đáng tin cậy của cán bộ, công nhân trong Ngành và nhân dân trong cả nước.
Công đoàn ngành Giao thông vận tải đã chủ động phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với cơ quan quản lý, động viên cán bộ, công nhân viên lao động toàn Ngành đoàn kết, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Công đoàn Ngành luôn nỗ lực phấn đấu để cải thiện đời sống, giảm bớt khó khăn cho cổng nhân lao động, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Ngành và đất nước.
Công tác báo chí, xuất bản đã làm tốt vai trò là người “chiến sĩ” trên mặt trận tư tưởng - văn hoá của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ chuyên ngành Giao thông vận tải, xây dựng lịch sử, truyền thống của Ngành và phản ánh được đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ, công nhân viên ngành Giao thông vận tải.
Các lĩnh vực công tác khác của Ngành như quản lý hạ tầng giao thông, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo, thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng thu được những kết quả đáng ghi nhận.
Đây là những thành tựu hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực của ngành Giao thông vận tải, trong thời gian ngắn đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo và tầm vóc hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Qua 70 năm chiến đấu và xây dựng, hàng triệu người làm giao thông vận tải thuộc các thế hệ đã hiến dâng toàn bộ sức lực, trí tuệ, sự nghiệp và cả tính mạng của mình, tất cả vì mục tiêu bảo tồn và phát triển mạch máu giao thông của Tổ quốc. Đó là những trang sử vàng không bao giờ phai mờ trong ký ức vinh quang và hào hùng của dân tộc.
Đặc biệt, cùng với đất nước, vì đất nước mà ngành Giao thông vận tải Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Ngành đã xây dựng được một lực lượng rất mạnh các doanh nghiệp xây dựng giao thông cũng như kinh doanh vận tải, nắm giữ và làm chủ nhiều trang thiết bị, kỹ thuật, phương tiện hiện đại và có rất nhiều kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh. Từ một điểm xuất phát rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ của ngành Giao thông vận tải Việt Nam đã phát triển nhanh chóng; tiếp thu và làm chủ được rất nhiều công nghệ mới, hiện đại. Những thiết bị, qui trình này đã được áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực của Ngành, từ đường bộ, đường sắt, đường sông đến hàng hải, hàng không. Đây là những vốn quí, nền tảng quan trọng để ngành Giao thông vận tải Việt Nam có thể tiến nhanh, tiếp cận và theo kịp sự phát triển của giao thông vận tải thế giới.
Qua nhiều thời kỳ phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới, ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong ngành Giao thông vận tải Việt Nam đều đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, xây dựng được phong cách tư duy năng động, sáng tạo. Đây cũng là những nền tảng quan trọng cho sự phát triển vì chủ trương đúng, lực lượng hùng hậu nhưng cần có cả những cách làm hay, sự tìm tòi và sáng tạo, thì mới phát huy hết được sức mạnh của toàn Ngành.