Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn được Bộ GTVT giao Cục Hàng hải Việt Nam là cơ quan lập quy hoạch. Công tác lập quy hoạch được Cục Hàng hải Việt Nam, Nhà thầu Tư vấn lập quy hoạch là liên danh Trung tâm Tư vấn đầu tư phát triển giao thông vận tải (CCTDI) - Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Công trình Hàng hải (CMB) thực hiện từ tháng 3/2022, tuân thủ Luật Quy hoạch và các quy định của pháp luật về cảng cạn (Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, Luật sửa đổi một số điều của 37 luật liên quan đến quy hoạch, Nghị định 38/2017/NĐ-CP về đầu tư xây dựng, quản lý khai thác cảng cạn, Nghị định số 56/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều liên quan đến lĩnh vực giao thông vận tải trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch).
Việc lập quy hoạch dựa trên các quy tắc: (1) Cảng cạn phải được quy hoạch gắn với đầu mối vận tải; (2) Cảng cạn cần quy hoạch gần các khu công nghiệp, khu chế xuất và kết hợp với các trung tâm dịch vụ logistics lớn; (3) Đối với cảng cạn hỗ trợ cửa khẩu đường bộ, đường sắt, đường hàng không, ưu tiên quy hoạch tại các cửa khẩu quốc tế có lưu lượng hàng hóa, phương tiện lớn hoặc các cửa khẩu có vai trò kết nối quan trọng trong ASEAN, vận tải xuyên Á; (4) Quy hoạch cảng cạn ưu tiên gắn với các hành lang vận tải có từ hai phương thức vận tải trở lên, đặc biệt là có vận tải thủy nội địa.
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Bộ GTVT tổ chức lấy ý kiến các Bộ ngành, địa phương, các tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch; Bộ GTVT đã tổ chức thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 979/QĐ-TTg ngày 22/8/2023.
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn gồm những nội dung chính như sau:
Quy hoạch đã xác định cảng cạn là một bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, là đầu mối tổ chức vận tải gắn liền với hoạt động của cảng biển, cảng hàng không, cảng thủy nội địa, ga đường sắt, cửa khẩu đường bộ. Phát triển cảng cạn phải phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển, các quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của các vùng và địa phương.
Phát triển hệ thống cảng cạn để tối ưu hóa vận tải hàng hóa xuất, nhập khẩu của từng khu vực và các hành lang kinh tế; kết hợp vừa phát triển cảng cạn gần cảng biển để hỗ trợ trực tiếp vừa phát triển cảng cạn xa cảng biển gắn liền với các trung tâm phân phối tiêu thụ hàng hóa, các cửa khẩu đường bộ, đường sắt để tổ chức tốt mạng lưới vận tải, thúc đẩy vận tải đa phương thức, giảm chi phí dịch vụ vận tải và logistics.
Ưu tiên hình thành và phát triển: Các cảng cạn gắn với phương thức vận tải khối lượng lớn (đường thủy nội địa, đường sắt); các cảng cạn gắn với khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm logistics và các cửa khẩu đường bộ, đường sắt quốc tế có nhu cầu vận tải với khối lượng lớn.
Đảm bảo tính kế thừa trong quá trình phát triển, phát huy tối đa công suất của các cảng cạn hiện hữu, kết hợp rà soát điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu thực tế; phát triển các vị trí mới kết hợp với việc di dời một số cảng cạn để hình thành hệ thống cảng cạn đồng bộ, hiện đại, bền vững, đảm bảo an toàn giao thông và bảo vệ môi trường.
Huy động mọi nguồn lực, sử dụng tối đa nguồn lực xã hội hóa để đầu tư phát triển cảng cạn theo quy hoạch.
Theo quy hoạch, mục tiêu đến năm 2030: Phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng từ 25% - 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải. Hình thành các cảng cạn, cụm cảng cạn với tổng công suất khoảng từ 11,9 triệu TEU/năm đến 17,1 triệu TEU/năm.
Trong đó, khu vực phía Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 4,29 triệu TEU/năm đến 6,2 triệu Teu/năm; khu vực miền Trung - Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 0,9 triệu TEU/năm đến 1,4 triệu TEU/năm; khu vực phía Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 6,8 triệu TEU/năm đến 9,5 triệu TEU/năm.
Định hướng đến năm 2050: Phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics, có khả năng thông qua khoảng 30% - 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải, đáp ứng nhu cầu dịch vụ logistics tại các địa phương.
Trong bối cảnh nhu cầu vận tải container ở Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là vận tải đường biển đã kéo theo sự phát triển của các cảng biển, vận tải đa phương thức và logistics. Việc phát triển cảng cạn như “cánh tay nối dài” của cảng biển vào sâu nội địa giúp tăng hiệu quả khai thác cảng biển.
Quy hoạch phát triển cảng cạn đóng vai trò thúc đẩy triển khai đầu tư khai thác cảng cạn, giảm gánh nặng ùn tắc do thiếu hụt kho bãi, ùn tắc giao thông trong tổ chức vận tải hàng hóa đến cảng biển và các cửa khẩu đường bộ hiện nay; Thúc đẩy hình thành các cảng cạn gắn với đường thủy nội địa, đường sắt để giảm thị phần vận tải đường đường bộ trên các hành lang vận tải container, góp phần tái cơ cấu vận tải, phát triển vận tải đa phương thức, giảm chi phí vận tải và ô nhiễm môi trường.
Quy hoạch cũng là căn cứ để đẩy nhanh hình thành các cảng cạn mới, chuyển đổi các điểm thông quan nội địa (ICD) đã được quy hoạch cảng cạn; Căn cứ để địa phương và doanh nghiệp kết hợp quy hoạch phát triển hiệu quả cảng cạn và trung tâm logistics; Đẩy nhanh việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đảm bảo sự đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tổng thể quốc gia, các quy hoạch ngành quốc gia và các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành trên cả nước. Trong đó, có các quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, hàng không, đặc biệt là quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển và quy hoạch của các địa phương.
Quy hoạch được phê duyệt là cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; Tổ chức vận chuyển container một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu tối ưu hóa vận tải hàng hóa xuất, nhập khẩu của từng khu vực và các hành lang kinh tế, hợp lý hóa tổ chức vận tải với hãng container, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp để nâng cao chất lượng, giảm chi phí dịch vụ vận tải và logistics. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu hỗ trợ trực tiếp tại chỗ với hệ thống cảng biển, nhu cầu kết nối vận tải đa phương thức, tổ chức giao thông tại các khu vực hậu phương xa cảng biển; Thúc đẩy huy động nguồn lực xã hội hóa để đầu tư phát triển cảng cạn theo quy hoạch./.
PV