Các cơ quan chức năng đã tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra, sắp xếp lại một số cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, sửa đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật và dưới luật, tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra và xét xử nghiêm minh các vụ án tham nhũng, đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như kê khai tài sản, chuyển đổi vị trí làm việc, tăng cường thanh tra trách nhiệm, quyết tâm điều tra những vụ án nổi cộm.
Có thể nói, Việt Nam đã có quyết tâm chính trị cao trong phòng, chống tham nhũng, đã tích cực tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng của Liên hợp quốc, như tham gia đàm phán ký kết các văn bản quốc tế, tham gia vào hợp tác đánh giá nỗ lực quốc gia về phòng, chống tham nhũng, tham gia trao đổi đoàn và các hội thảo quốc tế về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là hợp tác với nhiều nước cả song phương và đa phương để học tập trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống tham nhũng làm cho nhận thức và năng lực về phòng, chống tham nhũng được nâng cao rõ rệt.
Tuy nhiên, tình hình tham nhũng hiện nay vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Qua phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng cho thấy tính chất tham nhũng ngày càng tinh vi, thủ đoạn xảo quyệt hơn, phạm vi, lĩnh vực tham nhũng ngày càng rộng, thậm chí có tổ chức đối với một số vụ việc, vụ án tham nhũng lớn, mức độ thiệt hại ngày càng lớn, một số vụ án tham nhũng gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát một lượng lớn tài sản của Nhà nước. Đặc biệt hơn nhiều vụ tham nhũng đã có yếu tố nước ngoài phức tạp có chiều hướng gia tăng (như mua ụ nổi, tầu cũ, tầu già của nước ngoài; hối lộ quan chức Việt Nam để thắng thầu v.v...), thậm chí đã xuất hiện tình trạng tham nhũng có tính lợi ích nhóm trong một số lĩnh vực.
Trong thời gian tới tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam còn có nhiều khó khăn, quản lý nhà nước vẫn còn khe hở, việc hợp tác quốc tế còn chưa thực sự sâu và rộng nên vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực, nguy cơ phát sinh tham nhũng. Việc xây dựng các qui định của pháp luật còn chưa chặt chẽ và đầy đủ, việc triển khai thực hiện một số chủ trương, chính sách lớn như: Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng một số tài sản khó định giá như tài nguyên, khoáng sản, hạ tầng viễn thông, hạ tầng kỹ thuật lớn; việc thoái vốn đầu tư ngoài lĩnh vực kinh doanh chính của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước; vấn đề xử lý nợ xấu và hoạt động tín dụng của một số tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại; vấn đề hoàn thuế VAT v.v...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng phòng, chống tham nhũng còn chưa hiệu quả: Tổ chức bộ máy phòng chống tham nhũng dàn trải, nguyên tắc hoạt động chưa thật sự chủ động độc lập dẫn đến thiếu tính khách quan, chưa có tính chuyên nghiệp, cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội còn sơ hở, thiếu đồng bộ, dễ bị lợi dụng để tham nhũng; một số quy định của pháp luật liên quan tới việc phát hiện, xử lý tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, khen thưởng và bảo vệ người tố cáo tham nhũng chưa đầy đủ; còn có khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng và việc răn đe đối với hành vi tham nhũng chưa thực sự mạnh mẽ, Việc phối hợp dẫn độ tội phạm tham nhũng chưa được đẩy mạnh với các nước đặc biệt là việc phối hợp thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa được thực hiện.
Vì vậy, để từng bước ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, Việt nam cần có nghiên cứu và đánh giá cụ thể mức độ tác động của pháp luật phòng, chống tham nhũng và hậu quả của tham nhũng trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, qua đó tiến hành sửa đổi một cách căn bản hệ thống pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.
Cần tiến hành nhiều giải pháp phòng ngừa, đặc biệt là các biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng, vì thực tế đối tượng có hành vi tham nhũng hiện nay chưa được phát hiện có nhiều hoạt động che dấu đối phó và những đối tượng này đều có chức vụ, quyền hạn và đang nắm giữ những vị trí trong bộ máy của nhà nước. Trước mắt cần chú trọng vào việc sửa đổi luật phòng, chống tham nhũng với một số nội dung sau đây:
1. Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp
Hiện nay, Việt Nam đã có một số tiền đề pháp lý cho việc chuẩn bị giải pháp hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính. Tiến tới sẽ nghiên cứu qui định việc làm giầu bất hợp pháp để có thể tạo ra hành lang pháp lý dễ dàng cho việc đấu tranh chống tham nhũng. Thực tiễn việc tiến hành áp dụng biện pháp minh bạch tài sản, công khai thu nhập, cơ chế quản lý tài chính, giao dịch tài chính tại Việt Nam còn hạn chế vì việc sử dụng tiền mặt còn quá phổ biến. Xuất phát từ thực tế này, việc sửa đổi pháp luật phòng, chống tham nhũng cần tính tới hình sự hóa hành vi làm giầu bất hợp pháp. Đây là một biện pháp “thông minh” để đấu tranh với loại tội phạm tham nhũng. Chứng cứ của tội danh này được thể hiện bằng sự tăng lên bất thường và đáng kể về tài sản và thu nhập của công chức mà nó không phù hợp với thu nhập hợp pháp được tạo ra và không giải trình hợp lý được về nguồn gốc của tài sản tăng thêm. Như vậy, việc chứng minh tài sản tăng lên bất thường và đáng kể của công chức là dễ dàng hơn nhiều việc chứng minh tài sản tăng lên đó có nguồn gốc từ hoạt động tham nhũng.
2. Hình sự hóa hành vi tham nhũng trong khu vực tư
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tham nhũng trong khu vực tư đang phá vỡ các nguyên tắc vận hành của nền kinh tế, hình thành những thói quen kinh doanh bất chính, làm suy yếu năng lực cạnh tranh của chính các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chẳng hạn, sự thiếu minh bạch, thiếu lành mạnh trong các ngân hàng và tổ chức tài chính tư nhân sẽ gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế, thậm chí cao hơn nhiều hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công. Xét ở góc độ pháp luật quốc tế, các quy định về chống hối lộ dưới mọi hình thức đã trở thành nguyên tắc bất di bất dịch và là một trong những điều kiện tiên quyết đặt ra khi các doanh nghiệp ký kết hợp đồng, thỏa thuận với nhau. Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, các yếu tố kinh tế thị trường đã tác động và thay đổi nhiều vấn đề trong vận hành nền kinh tế, kéo theo đó sự phát triển của các loại tội phạm nguy hiểm. Một trong số đó là tham nhũng trong khu vực tư. Hành vi tham nhũng trong khu vực tư cũng gây ra những hậu quả nguy hiểm như hậu quả của hành vi này trong khu vực công, dù ở các khía cạnh khác nhau. Tham nhũng khu vực tư làm méo mó môi trường kinh doanh, làm suy yếu sức cạnh tranh và tạo ra những bất bình đẳng và giảm lòng tin đối với doanh nghiệp khu vực tư; đe dọa sự tín nhiệm, trung thực và trung thành, những yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển các quan hệ xã hội và kinh tế. Bên cạnh đó, việc chưa quy định tham nhũng trong khu vực tư đã bỏ ra ngoài hành vi tham nhũng tại các doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của nhà nước.
Đặt vấn đề hình sự hóa tham nhũng trong khu vực tư là cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đi vào quỹ đạo hội nhập quốc tế. Nếu không thực hiện việc hình sự hóa này, đồng nghĩa với việc loại trừ một khoảng rộng các hoạt động công khỏi bị điều tra về tội phạm tham nhũng. Thậm chí ngày càng nhiều chức năng công và dịch vụ công như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, công chứng... được cung cấp bởi khu vực tư và đặt ra một thực tế là những tổ chức kinh tế có mối quan hệ mật thiết với Nhà nước nhưng vẫn hoạt động như những pháp nhân thương mại.
3. Thu hồi tài sản do tham nhũng mà có
Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có là hoạt động quan trọng và là thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Tuy nhiên, thực trạng thu hồi tài sản hiện nay cho thấy, bên cạnh số tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là rất lớn, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân; việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế thu hồi tài sản tham nhũng đạt tỷ lệ thấp, trong đó nguyên nhân trực tiếp là những hạn chế, vướng mắc về cơ sở pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, mặc dù Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật hình sự và các luật chuyên ngành khác cũng đã có quy định về vấn đề này, nhưng chưa đầy đủ và rõ ràng. Trên thực tế, Việt Nam đã xác lập những cơ sở nhất định cho việc thực hiện; đã có kinh nghiệm thực tiễn nhất định trong hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và theo một số hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam đã ký.
Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, việc hoàn thiện pháp luật cần quan tâm đến những giải pháp sau:
Một là, bổ sung các văn bản pháp luật quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý, chủ quản trong việc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối tượng tẩu tán tài sản. Mặt khác, sửa đổi quy định pháp luật theo hướng khi lượng hình phạt, việc hoàn trả tài sản cần được xem là một tình tiết bắt buộc chứ không phải tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Hành vi phạm tội về tham nhũng phải xử lý nghiêm theo khung truy tố, còn việc hoàn trả tài sản tham nhũng là căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt hoặc là căn cứ để giảm án khi chấp hành hình phạt.
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng đề cao vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng. Quy định quá trình điều tra, cơ quan điều tra có trách nhiệm làm rõ tài sản đang ở đâu, tẩu tán ra sao; thực hiện nghiêm, triệt để quy định thu hồi số tài sản này để khắc phục thiệt hại. Cần bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh tài sản thi hành án dân sự. Quy định rõ trong các vụ án tham nhũng phải cho phép áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngay từ khi đủ cơ sở khởi tố một cá nhân nào đó về hành vi tham nhũng để tránh việc “đánh tháo, tẩu tán”.
Ba là, đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai; bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, đề xuất xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Bốn là, khắc phục những bất cập trong hoạt động giám định tư pháp theo vụ việc phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng; giúp xác định rõ thiệt hại do tham nhũng
Năm là, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài
4. Quy định xử lý người có hành vi tham nhũng
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định về xử lý hình sự hành vi tham nhũng cần thống nhất: tội nhận hối lộ là tội tham nhũng (Điều 279 Bộ luật hình sự) thì tội đưa hối lộ (Điều 289 Bộ luật hình sự) và tội làm môi giới hối lộ (Điều 290 Bộ luật hình sự) lại không được quy định là tội phạm về tham nhũng. Khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn trong một số văn bản pháp luật về xử lý tham nhũng (như Điều 289 Bộ luật hình sự, Điều 70 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005)… Các qui định chế tài kỷ luật công chức có hành vi tham nhũng cần cụ thể để tạo điều kiện dễ áp dụng và không bị lợi dụng.
Thứ hai, quy định về thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với công chức có hành vi tham nhũng cần chặt chẽ và cụ thể khi áp dụng hình thức kỷ luật cần phải bảo đảm tuân thủ nguyên tắc về “thời hiệu” vì tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật có tính phức tạp và “ẩn” rất cao, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn nên việc che dấu thường rất tinh vi, khó phát hiện.
Thứ ba, Các quy định về chủ thể có thẩm quyền kết luận về hành vi tham nhũng của công chức phải thống nhất, nên chủ yếu để tòa án kết luận và cần hạn chế tối thiểu việc xử lý nội bộ hoặc hành chính đối với hành vi tham nhũng.
5. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng tập trung nhưng do yêu cầu của công tác này nên đã giao chức năng này cho một số cơ quan như Thanh tra, Công an, Viện kiểm sát, kiểm toán…Các cơ quan này trên thực tế đã thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định.
Việc tồn tại nhiều cơ quan tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng tạo thuận lợi cho việc triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, nhưng lại thiếu sự phối hợp và đặc biệt là trách nhiệm phòng, chống tham nhũng khi hiệu quả thấp thì khó xác định. Điều đó đã làm giảm đi đáng kể hiệu quả, hiệu lực của công tác đấu tranh chống tham nhũng hiện nay.Vì vậy cần hoàn thiện theo hướng thành lập cơ quan phòng, chống tham nhũng chuyên trách và tập trung đủ mạnh để xác định trách nhiệm và nâng cao năng lực, chuyên môn tính chuyên nghiệp chính qui trong phòng, chống tham nhũng theo hướng:
Một là, đối với cơ quan thanh tra, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, tiếp công dân, phòng, chống tham nhũng trong đó làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là làm rõ nội hàm quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng trên phạm vi quốc gia cũng như từng địa phương và trong từng ngành, từng lĩnh vực. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra nhằm nâng cao hiệu quả chống tham nhũng qua hoạt động thanh tra, tập trung vào hai vấn đề quan trọng là nâng cao tính độc lập, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động thanh tra, phòng, chống tham nhũng và trao cho các cơ quan thanh tra quyền khởi tố vụ án hình sự được phát hiện qua hoạt động thanh tra và sau khi đã thu thập đầy đủ chứng cứ để đề nghị Viện kiểm sát nhân dân truy tố trước pháp luật hoặc khởi tố và thực hiện quyền điều tra ban đầu trước khi chuyển sang cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành điều tra để chuyển Viện kiểm sát truy tố.
Hai là, đối với cơ quan kiểm toán nhà nước chỉ là cơ quan phối hợp trong việc cung cấp thông tin về phòng, chống tham nhũng, do đó tăng cường các biện pháp phối hợp cung câp thông tin; cơ quan Kiểm sát cần tăng cường chức năng kiểm sát, giám sát hành vi tham nhũng khi có các vụ án được khởi tố. Đối với cơ quan điều tra cần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này vì thực tế đây là cơ quan chuyên trách đấu tranh chống tội phạm tham nhũng; nâng cao chất lượng điều tra tiến tới hợp nhất các chức năng của các cơ quan để thành lập Ủy ban chống tham nhũng của nhà nước.
6. Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ
Trong thời gian tới cần xây dựng và bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là những người ở những vị trí và lĩnh vực công tác có nguy cơ tham nhũng cao. Trong đó tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định bắt buộc thực hiện việc chi trả qua tài khoản ngân hàng đối với tất cả các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho người có chức vụ, quyền hạn; rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về nhận tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của người có chức vụ, quyền hạn; xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc kê khai, xác minh các khoản chi đầu tư và chi tiêu dùng có giá trị lớn của người có chức vụ, quyền hạn. Đối với các qui định về đạo đức công vụ thực sự chưa được thực hiện nhiều, cần phải có những qui định chặt chẽ hơn trong việc giám sát cán bộ thực thi nhiệm vụ về đạo đức và trách nhiệm công vụ, kể cả việc quản lý các mối quan hệ của cán bộ cao cấp vì đây cũng là một kẽ hở làm cho những kẻ tham nhũng lợi dụng.
Tóm lại, công cuộc phòng, chống tham nhũng có hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó việc hoàn thiện pháp luật là yếu tó trọng tậm và trước mắt. Chỉ có những qui định khoa học, chặt chẽ, đầy đủ và đơn giản dễ thực hiện thì mới có thể tạo ra được các cơ chế và biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả trong phòng, chống tham nhũng.
TS. Nguyễn Quốc Hiệp (Theo GIRI)